Luận giải quyển hai " kệ dân của người khùng"

06:36:00
  1. Luận giải quyển hai " kệ dân của người khùng"

    PHẬT GIÁO HÒA HẢO

    LUẬN GIẢI 
    Quyển thứ hai "KỆ DÂN CỦA NGƯỜI KHÙNG"
    Của
    ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ

    LUẬN GIẢ:

    Cư sĩ Hồ Minh Châu & Thái Hòa

    LỜI TỰA 

    --- oOo ---

    Ngày 12 tháng 9 năm 1939 Đức Thầy viết Quyển KỆ DÂN của NGƯỜI KHÙNG, 476 câu, tức quyển thứ nhì, mở đầu bằng mấy dòng thơ dào dạt tình thương:

    Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế,
    Thấy dân mang sưu thuế mà thương …

    ... Thương hại bấy lê dân đứt ruột
    Thảm vợ con đói rách đùm đeo
     

    Ngài xót xa trước một xã hội đảo điên, đang trên đà băng hoại: 

    … Cuộc dương thế ngày nay mỏng mảnh
    Mà sang giàu còn hiếp nghèo nàn …

    … Học ai mà ngang ngược nhiều lời,

    Phụ mẹ cha, khinh dể Phật Trời …

    … Hiếm những kẻ không nhà không đất

    Mà sang giàu chẳng xót thương giùm
    Có lỡ lầm chưởi mắng um sùm
    Thêm đánh đập khác nào con vật
    Ăn không hết lo dành lo cất
    Đem bạc trăm cúng Phật làm chi ?

    … Chẳng làm phước để làm hung dữ
    Rồi vào chùa lạy Phật mà trừ …

    Phật Giáo ra đời với mục đích mang tình thương và hạnh phúc cho con người. Trong xã hội mà vấn đề giáo dục bị xem thường thì đạo đức sẽ lần hồi vắng bóng, đó là nỗi bất hạnh và mối nguy lớn cho xã hội, vì vậy, Đức Thầy tha thiết:
    … Trung với hiếu ta nên trau trỉa,
    Hiền với lương bổn đạo rèn lòng ...

    ... Hãy thương xót những người tàn tật
    Thấy nghèo hèn chớ khá khinh cười ...

    ... Ráng giữ gìn phong hoá nước nhà
    Câu tam tùng bọn gái nước ta

    Chữ hiếu nghĩa trẻ trai cho vẹn ...

    ... Trai nhỏ tuổi kính thành trưởng lão
    Gái bé thơ biết trọng tuổi già ...

    Phần đông người đời cũng như một số không ít tu sĩ chưa nhận diện được đạo Phật là đạo giác ngộ, giáo lý của Đức Thế Tôn dạy tỉnh thức nội tâm, phát triển tinh thần và thăng hoa trí huệ.

    Để làm sáng tỏ hoài bảo của Đức Thế Tôn, Đức Thầy thắp lên ngọn đuốc chánh pháp nhằm xoá tan màn mê tối, xây dựng lại nếp sống Phật giáo:
    … Học tả đạo làm điều tà mị
    Theo dị đoan cúng kiếng tinh tà ...

    … Tu hành mà vị kỷ quá chừng

    ... Tu vô vi chớ cúng chè xôi
    Phật chẳng muốn chúng sanh lo lót …

    ... Kẻ vinh hoa phú quí giàu sang,
    Mướn tăng chúng đặng làm chữ hiếu ...

    ... Kẻ nghèo khó tu hành ngay thẳng
    Không cầu siêu Phật bỏ hay sao ?

    … Tham, Sân, Si chớ để trong lòng

    … Phải giữ lòng cho được sạch trong ..

    … Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu
    Hãy tìm kiếm cái không mới có …

    … Phật tại tâm chớ có đâu xa
    Mà tìm kiếm ở trên Non Núi …

    Vì kiếp nhân sinh ngắn ngủi nên con người mới nuôi nhiều dục vọng, đó là nguồn gốc của mọi khổ đau, chỉ có trí huệ mới phá tan và tiêu diệt được màn mê tối do dục vọng ngăn che. Nên Đức Thầy dạy tránh việc ác, làm điều lành, giữ gìn tâm ý phẳng lặng, sạch trong cho trí huệ phát sinh, khi trí huệ hiển lộ người học Phật mới thấy được tâm chúng sanh và chơn tánh của mình. Tâm chơn chánh là tâm Phật mà từ lâu bị bỏ quên, bị lu mờ bởi dục vọng, bởi mê tối, nay nhờ trí huệ thăng hoa mới soi sáng tâm Phật vốn mình sẵn có, khỏi tìm kiếm nơi non núi.

    Kinh Pháp Cú, câu 42 : "Không có kẻ thù nào làm hại ta bằng chính những tư tưởng Tham dụcSân hận và Mê si của mình". Đó là Ba Độc.

    Đọc Quyển KỆ DÂN nếu chúng ta xót xa được nỗi ưu tư của Đức Thầy trong nỗ lực phá bức màn vô minh của người tu Phật mà cố gắng tu tập theo lời Người chỉ dạy, lắng lòng trong sạch, điều tiết tâm trí, chắc chắn chúng ta sẽ thấy nguyên nhân gây ra đau khổ mà vận dụng nghị lực tiêu diệt Ba Độc, dầu chưa đạt đến Bồ Đề tâm, vượt thoát bốn chặng đường Sanh, Già, Bịnh, Chết, thì cũng vơi được phần phiền não, được sống thanh thản an nhàn…

    Hồ Minh Châu 
    QUYỂN HAI"KỆ DÂN CỦA NGƯỜI KHÙNG"

    Luận giải

    --- oOo ---

    1.-"Ngồi KHÙNG trí đoái nhìn cuộc thế - Thấy dân mang sưu thuế mà thương - Chẳng qua là Nam-Việt vô vương - Nên tai-ách xảy ra thảm-thiết".

    Luận giải: (dòng 1 tới 4, trang 53)

    Nhìn cuộc thế thấy dân chúng bị sưu cao thuế nặng mà Ngài xót xa lòng, chỉ vì quê hương bị nước ngoài cai trị nên người Việt phải chịu đau khổ.

    (từ đây chúng tôi dùng từ Ngài thay hai từ Đức Thầy)

    Nghĩa chữ khó:

    Khùng - Điêntâm trí không đuợc bình thường. Đức Thầy xưng Khùng-Điêncũng như Đức Phật Thầy Tây An, vị Giáo tổ phái BỬU SƠN KỲ HƯƠNG - tạm dịch: "Hương lạ trên non báu" - hay Đức Phật Trùm, Ông Sư Vải Bán Khoai (một hoá thân của Đức Phật Thầy Tây An), các Ngài xuống trần giảng dạy Đạo đều xưng Khùng-ĐiênTheo chúng tôi, danh xưng này có hai ý:
    a.- người đời quá khôn mà độc ác, còn các Ngài xưng Khùng-Điên nhưng lòng Bồ tát đầy tình thương.
    b.- Việt Nam thời bấy giờ đang bị thực dân Pháp cai trị, nên các Ngài phải giả Khùng-Điên để che mắt bọn người lấy tin cho nhà cầm quyền.
    Trí: phần sáng suốt, hiểu biết, nhận xét của con người.
    Đoáingoảnh lại, nhìn lại; nghĩ tới, tưởng nhớ lại.
    Cuộc thế - Cuộcviệc xảy ra nghe thấy như giặc cướp, sấm sét, giông bão, động đất…Thế: cõi sống, đời người.Cuộc thếchỉ những sự việc quan trọng xảy ra trong đời sống con người.
    Sưu thuế - Sưu: (miền Nam nói xâu) là góp công sức vào những việc xây dựng cho ích lợi chung. Ở các nước thiếu vắng Tự do Dân chủ, nam công dân tuổi từ 18 đến 60 phải đóng góp việc nặng nhọc này mà không được trả tiền công. Thuế: số tiền dân phải nạp cho Nhà nước như thuế đất, thuế nhà, thuế lợi tức (thuế về việc làm kiếm ra tiền). Thời thực dân Pháp cai trị, người dân phái nam, tuổi từ 18 đến 60 bị bắt buộc đóng thuế thân, tức thuế con người. Thuế này chia nhiều hạng:
    a/- không đất vườn.
    b/- có đất vườn ít.
    c/- có đất vườn nhiều.
    Vô vươngkhông vua, chỉ Việt Nam bị Pháp cai trị. 
    Tai áchviệc nguy hiểm, có hại mạng sống, hay tài sản. 
    Thảm thiếthết sức xót xa, quá khổ cực, thật đau lòng.

    --- oOo ---

    2.-"Bạc không cánh đổi thay chẳng biết -Vàng bị nghèo mấy chiếc chẳng còn - Mới mấy năm sao quá hao-mòn - Mùa-màng thất, đói đau không thuốc".

    Luận giải(dòng 5 tới 8, trang 53)

    Tiền bạc tuy không cánh nhưng vừa có đó rồi bay mất hồi nào không hay biết, còn vàng dành dụm cất giấu bấy lâu, vì nghèo nên mấy chiếc cũng bán lần đến hết. Mới mấy năm mà đời sống ngày càng thêm xấu tệ, mùa màng ruộng hay vườn đều thất bại, đâu đâu cũng thấy dân chúng sống thiếu ăn, đau không thuốc uống.

    Nghĩa chữ khó:
    Mùa màngchỉ chung số lợi thâu được về lúa, khoai, bắp, cây ăn trái ... trong năm. 
    Thất bại: không kết quả tốt, được chút ít hay mất sạch. 

    --- oOo ---

    3.-"Thương hại bấy lê-dân đứt ruột - Thảm vợ con đói rách đùm-đeo - Gẫm chữ nghèo thường mắc chữ eo - Thêm gạo lúa lại tăng giá mắc".

    Luận giải(dòng 9 tới 12, trang 53)

    Trước cảnh dân chúng áo quần rách rưới cột đùm, vợ thì lưng cõng, tay bồng con, chồng thì vai mang gói to gói nhỏ, đi lang thang, cơm ăn không đủ no, lạnh không áo mặc đủ ấm, còn giá lúa gạo mỗi ngày cứ tăng lên vùn vụt, đời sống kẻ nghèo vốn đã eo hẹp nay càng thêm thiếu thốn, khổ sở, Ngài thấy mà thương xót vô cùng.

    Nghĩa chữ khó:

    Lê dândân đen, dân không chức phận trong làng xã.
    Đùm đeoáo quần hay vật dụng cột túm lại thành bọc, đi lang thang, là hình ảnh dân nghèo không nhà, vợ chồng tay xách nách mang, vai đeo gói to gói nhỏ, con cái áo quần rách không có vải vá phải cột chùm lại, sống chui rúc dưới gầm cầu hay bụi cây, góc chợ.
    Eochỗ tóp, thắt hẹp ở giữa, như eo lưng. Nghĩa bóng là quá túng thiếu, thắt ngặt.
    Gẫm chữ nghèo thường mắc chữ eođã nghèo còn gặp nhiều việc khó, như bịnh, không tiền uống thuốc, cứ chịu lây lất ngày qua ngày, bịnh càng nặng, rồi chết...

    --- oOo ---

    4.-"Nhìn cuộc thế đổi thay quá gắt - Máy Thiên-cơ mỗi phút mỗi thay - Nẻo thạnh suy như thể tên bay - Đường vinh-nhục rủi may một lát".

    Luận giải(dòng 13 tới 16, trang 53)

    Cuộc thế trải qua nhiều thay đổi lớn lao mà không ai đoán trước được, máy Trời mỗi phút mỗi khác, việc giàu nghèo, chuyện nhục vinh, lên voi hay xuống chó chỉ rủi may trong chốc lát, ‘thời gian ngắn’.

    Nghĩa chữ khó:

    Gắtkhắt khe, quá lắm, dữ dội, ngặt nghèo. 
    Thiên cơmáy Trời, sự sắp đặt của Trời.
    Thạnh suy - Thạnhhênphát lên tốt đẹpSuyxuisụp, rớt xuống chỗ thấp, xấu đi.
    Vinh nhục – Vinhvẻ vang, sung sướng, được đời kính trọng (lên voi). Nhụcbị mất hết (xuống chó).

    --- oOo ---

    5.-"Ai phú-quí vào đài ra các - Ta ĐIÊN KHÙNG thương hết thế-trần - Khuyên chúng-sanh chẳng biết mấy lần - Nào ai có tỉnh tâm tìm Đạo".

    Luận giải(dòng 17 tới 20, trang 53)

    Mặc tình ai giàu sang, nhà cao cửa rộng, còn Ngài tuy với vẻ Điên Khùng nhưng lòng thương yêu tất cả chúng sanh. Ngài đi khắp nơi khuyên dạy, nhắc nhở việc tu hành, vậy mà chẳng được mấy ai biết suy nghĩ bỏ mê tối tìm đường về với Phật đạo.

    Nghĩa chữ khó:

    Phú qúigiàu có sang trọng. 
    Đài cácnền nhà cao, nhà có lầu gác, chỉ sự giàu sang. 
    Tỉnh tâm - Tỉnhxét kỹ. Tâmlòng. Có nghĩa tâm trí tỉnh dậy sau cơn mê, hết lầm lạc, biết sai mà sửa đổi.
    Thế trần - Trần thế - Thếcõi đời. Trầnbụi cát; cõi đời cát bụi, cũng chỉ người đời. 
    Đạo:
    a.- Lẽ phải, con đường đúng, phép tắc của người xưa đặt ra được xã hội thừa nhận làm mẫu mực trong quan hệ đối xử giữa con người với nhau.
    b.- Nền tảng của tôn giáo, dạy con người trau sửa tâm tánh, ở ăn ngay thật.
    Giác ngộbực sáng suốt, thông suốt đạo lý, lòng không còn vướng mắc những thứ tình cảm: buồn vui, thương, yêu, giận, ghét, ham muốn như người thường ...

    --- oOo ---

    6.-"Trai trung-liệt đáng trai hiền-thảo - Gái tiết-trinh mới gái Nam-trào - Lời Thánh Hiền để lại biết bao - Sao trai gái chẳng coi mà sửa? - Đời tận thế mà còn lần-lựa - Chẳng chịu mau cải dữ về lành".

    Luận giải(dòng 21 tới 26, trang 53)

    Thân trai ngoài trách nhiệm giữ gìn Tổ Quốc Quê hương dầu phải hy sinh tánh mạng, còn phải thành kính với Ông Bà, hiếu thảo cùng Mẹ Cha; về đời sống, bất luận ở hoàn cảnh nào cũng trong sạch, ngay thẳng, rộng rãi tha thứ, sẵn sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó hoạn nạn. Bổn phận người phụ nữ Việt Nam phải biết trân trọng giữ gìn danh tiết. Gương cao quí cũng như lời hay lẽ phải của Thánh Hiền để lại rất nhiều, trai gái nên noi theo mà sửa tánh răn lòng ? Đời đã cạn cùng, đừng chần chờ nữa, hãy ăn năn cải sửa.

    Nghĩa chữ khó:
    Trung liệtngười hết lòng yêu tổ quốc, kính trọng chủ tướng, thẳng ngay với mọi người, dầu nghèo khổ, nguy hiểm hay trước cái chết vẫn không thay lòng đổi dạ.
    Hiền thảo: hiếu kính Ông Bà Cha Mẹ, giúp đỡ và đối xử tốt với mọi người, thương sanh vật.
    Danh tiếtdanh dự và tiết trinh, chỉ sự trong sạch, đạo đức của phụ nữ.
    Danh dự - Danh: tiếng tăm. Dự: khen ngợi, tiếng tốt. Danh dự: thứ giúp con người được xã hội tin dùng, có tiếng tăm với đời chớ không có quyền hành gì.
    Tiết trinh - Tiết: mắt tre, có chừng đổi như những mắt tre, ngay thẳng trong sạch, chỉ giá trị, danh dự con người.Trinh chỉ sự trong sạch của phụ nữ. Tiết trinh chỉ chung sự trong sạch, giá trị đạo đức của phụ nữ.
    Nam tràonước Việt Nam ở thời kỳ có vua cai trị. 
    Lần lựatrì hoản, chần chờ, hẹn lần lần.
    Thánh Hiềnchỉ những vị tài đức được đời tôn kính. 
    Đời tận thế: ngày tận cùng của thế giới.
    Cải dữ: sửa đổi, không làm điều hung dữ, xấu ác nữa.

    --- oOo ---

    7.-"Làm PHẬT-NHI phải được lòng thành -Thì mới đặng vãng-sanh CỰC LẠC".

    Luận giải(dòng 1 và 2, trang 54)

    Người tu Phật lòng lúc nào cũng thành kính, siêng học kinh kệ, giữ luật Đạo, thì đời sống sẽ an vui, hạnh phúc, khi chết linh hồn nhẹ nhàng vãng sanh lạc cảnh.

    Nghĩa chữ khó:

    PhậtBouddha, tiếng Phạn (scr) đọc trọn: Phật đà, là bực sáng suốt, tức Giác ngộ hoàn toàn. 
    Phật Nhicon Phật, chỉ những người tu học Phật. 
    Vãng sanh Cực Lạcsanh về nơi tột cùng an vui.
    8.-"Tương với muối cháo rau đạm bạc -Nghèo lương hiền biết niệm DI ĐÀ - Mà mai sau thoát khỏi tinh ma - Lại được thấy cảnh TIÊN nhàn-hạ".

    Luận giải(dòng 3 tới 6, trang 54)

    Người nghèo, ăn uống đơn sơ cháo rau tương muối mà lòng lúc nào cũng giữ ngay thẳng hiền lành, luôn tin tưởng và niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà. Niệm Phật để lắng lòng, ngăn trừ tạp niệm. Nhờ tu học tinh thần mới vững mạnh, ý chí trong sáng không bị lạc lầm, không bị Tham - Sân - Si lôi cuốn vào tội ác. Tham-Sân-Si diệt, tâm trí an nhàn, cuộc sống sẽ thảnh thơi hạnh phúc, tức giải thoát.

    Nghĩa chữ khó:

    Đạm bạcchỉ sự ăn uống giản dị, sơ sài, ở mức cần thiết cho sự sống, không cần món ngon mắc tiền.
    Lương hiềnngười ngay thẳng; hiền, tốt bụng, thương và hay giúp người đau khổ.
    Niệmlà tưởng nhớ. Lòng thành kính tưởng nhớ công đức của Phật, của Ông Bà, Cha Mẹ. Niệm Di Đàthành kính đọc thầm danh hiệu Đức Phật A Di Đà, học và rán noi theo 4 đức lớn Từ - Bi - Hỷ - Xả của Phật.
    Niệm Phật là để trừ tạp niệm, bởi trong tâm con người quá nhiều tạp niệm nên lòng chẳng an vui mới bị phiền não ngăn che làm cho chơn tâm mờ ám. Nên, hễ thành tâm niệm Phật thì tâm không còn loạn, dứt được lòng ham muốn và các niệm chúng sanh cũng bị tiêu diệt.
    Phật A Di Đàtheo niềm tin, Ngài thường hiện thân đón tiếp những người tu hiền về cõi tịnh độ . 
    Nhàn hạthong thả, rảnh rang.

    Phụ giải:
    - Từlòng hiền lành, thương yêu tất cả chúng sanh, sẵn sàng giúp cho tất cả được yên vui, được lợi ích về vật chất và tinh thần. Phật đối với chúng sanh như mẹ với con nên gọi là Từ, lúc nào cũng lo lắng đến, hết lòng dìu dắt, dạy dỗ, không nỡ để chúng sanh sa vào đường tội lỗi mà chịu khổ não.
    - Bithương xót cảnh khổ của chúng sanh mà cố gắng cứu giúp, cố gắng trải lòng ra làm những gì có thể làm được lợi ích, bớt sự đau khổ của chúng sanhNếu chúng sanh nào dạy dỗ chẳng nghe, làm điều độc ác để phải tội thì Phật chẳng vì thế mà ghét bỏ, lại thương xót vô cùng muốn cứu vớt họ ra khỏi các tai nạn, nên gọi là Bi.
    - Hỷsẵn sàng mang niềm vui đến vui với người đời.
    - Xảtha thứ cho người; đem những vật cần thiết của mình giúp chúng sanh, không phân biệt kẻ oán người thân, thương hay ghét, lòng luôn an tịnh, thanh thản.
    - Sânkhi bị người xúc phạm thì giận dữ la hét như điên. Sau cơn giận lòng còn nuôi thù hận...
    - Sitâm mê muội, không phân biệt lẽ chánh tà, làm sai lạc gây tội lỗi, gây nghiệp ác ... sẽ bị đọa luân hồi. 

    --- oOo ---

    9.-"Trên BẢY NÚI còn nhiều báu lạ - Rán tu tâm dưỡng tánh coi đời - Coi là coi được PHẬT được TRỜI - Coi phép lạ của TIÊN của THÁNH ".

    Luận giải(dòng 7 tới 10, trang 54)

    Trên Bảy Núi có nhiều báu lạ, rán sửa tánh răn lòng, ăn ở hiền lành, khép mình tu học Phật để được sống nhìn Phật, Trời và phép lạ của Tiên Thánh.

    Nghĩa chữ khó:

    Bảy núihay Thất sơn, tức bảy ngọn núi ở tỉnh Châu Đốc, miền Tây Nam Việt, có tên như sau:
    1.- Anh Vũ sơn (núi Kéc)
    2.- Ngũ Hồ sơn (núi Giài hay Dài 5 giếng, gần núi Kéc)
    3.- Thiên Cẩm sơn (núi Gấm hay núi Cấm)
    4.- Liên Hoa sơn (núi Tượng)
    - 5.- Thủy Đài sơn (núi Nước, gần núi Tượng)
    6.- Ngọa Long sơn (núi Dài)
    - 7.- Phụng Hoàng Sơn (núi )
    Một giải thích khác, Bảy Núi gồm: núi Trà Sư, núi Kéc, núi Bà Đội Om, núi Cấm, núi Dài, núi Tượng và núi Tô. Thực ra, dãy Thất sơn có trên mười ngọn núi. (Thất Sơn Mầu Nhiệm: Dật Sĩ-Nguyễn văn Hầu).
    Tu tâm dưỡng tánhsửa tánh, gìn lòng yên tịnh, không đua chen danh lợi. 
    Tiênngười tu theo đạo Lão, không chen mình vào vòng danh lợi, sống an nhàn thong thả. 
    Thánhlà danh hiệu người đời tặng các bực sáng suốt, có tài và đạo đức hay những vị có công nghiệp về văn hoặc võ, vượt trội hơn người đồng thời, sau khi chết được người đời tôn kính, như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Khổng tử, vị tổ của đạo Nho hay Khổng giáo... Theo quan niệm Phật giáo, Thánh là người đã thoát khỏi mọi phàm tánh ở thế gian này.

    --- oOo ---

    10.-"Cuộc dương-thế ngày nay mỏng-mảnh - Mà sang giàu còn hiếp nghèo nàn - Phải xả thân tầm Bát-Nhã thoàn - Sau mới khỏi hùm tha sấu bắt ".

    Luận giải(dòng 11 tới 14, trang 54)

    Thấy thế nhân không tin trần gian sắp đến ngày tận diệt, lập lại đời mới, tức Thượng ngươn, nên lắm người giàu sang còn hiếp đáp kẻ nghèo nàn, vì vậy, Ngài khuyên các nhà có tiền của hãy mở lòng thương giúp đỡ người đói khổ; tha thứ và xả bỏ oán thù, nên quên đi giận ghét, sớm chiều sửa tánh răn lòng khép mình vào Phật Đạo. Được vậy mới hy vọng sau này có cuộc sống yên lành. Hiểu nghĩa bóng: người ăn ở hiền, không gây oán nên khỏi sợ bị trả thù. Nhờ dày công tu sẽ tránh được họa chết người. Khỏi bị bọn người độc ác hãm hại. 

    Nghĩa chữ khó:

    Dương thế - Thế gian - Trần gian đều chỉ cõi đời nơi con người sống. Cũng chỉ người đời. 
    Xả có 4 cách:
    a.- Tài xảđem của cải cho, giúp người nghèo khổ.
    b.- Pháp xảchỉ rõ đạo lý cho người khỏi đọa ác đạo.
    c.- Vô úy xảdạy người sự gan bền, không sợ quyền lực, nguy hiểm, hy sinh cả mạng sống.. 
    d.- Phiền não xảxả bỏ hết buồn phiền để lòng nhẹ nhàng thong thả.
    Bát nhãPrajnâ (scr) tiếng Phạn, có nghĩa là Huệ, Trí huệ. Danh từ đặc biệt về Phật pháp. Bát Nhã Thoàn là thuyền Bát Nhã. Theo nhà Phật, đời là biển khổ, con người ngụp lặn trong biển khổ, Phật và Bồ Tát dùng thuyền Bát Nhã cứu vớt, đưa chúng sanh qua bến bờ an lạc. Nghĩa rộng: khi hiểu rõ Phật pháp thì tâm trí thoát ra ngoài tham - sân - si, (Sân: cơn giận dữ. Si: mê muội không phân biệt được đúng sai) dứt các điều phiền muộn, tự mình thông hiểu, sáng suốt, tức giác ngộ. Nghĩa bóng câu: "Phải xả thân tầm Bát Nhã thoànlà khuyên nên sửa tánh, rèn lòng, giúp đỡ người, dẹp bỏ phiền muộn, lo tu, giữ lòng trong sáng, thanh tịnh cho trí huệ phát sinh.

    --- oOo ---


    11.-"Đến chừng đó bốn phương có giặc - Khắp hoàn-cầu thiết thiết tha tha - Vậy sớm mau kiếm chữ MA HA - Thì PHẬT cứu khỏi nơi khói lửa".

    Luận giải(dòng 15 tới 18, trang 54)

    Sẽ đến một thời kỳ máu đổ thây phơi khắp cùng mặt đất, dân chúng phải chịu muôn ngàn đau khổ, vì vậy, Ngàikhuyên thế nhân rán sửa tánh, răn lòng tìm về nền chánh đạo. Nhờ tu Phật, biết thương yêu, tha thứ, giúp đỡ nhau thể theo đức từ bi của Phật, chắc chắn người đời sẽ vơi bớt hận thù, nhờ đó mới nhẹ phần giết hại lẫn nhau.

    Nghĩa chữ khó:

    Thiết thiết tha thasự đau khổ mà hết sức cầu mong được cứu giúp.
    Ma HaMahâ, (scr) có nghĩa rộng lớn. Ở đây chỉ nền đạo lớn, tức đạo Phật.
    Khói lửanghĩa bóng chỉ giặc cướp, chết chóc.

    --- oOo ---

    12.-"Tưởng nhớ PHẬT như ăn cơm bửa -Vọng Cửu-Huyền sớm tối mới mầu - Chữ NAM-MÔ dẹp được lòng sầu - Sau thấy được nhà TIÊN cửa THÁNH".

    Luận giải(dòng 19 tới 22, trang 54).

    Niệm tưởng Phật như nhớ bữa ăn hằng ngày, niệm tưởng để học gương Bi-Trí-Dũng của Phật, nghĩ nhớ công ơn Tổ Tiên, Ông, Bà, Cha Mẹ và noi theo những hay tốt của các Ngài, tránh làm điều ác để Ông Bà khỏi phải mang tiếng xấu. Lòng luôn có Phật thì những ý nghĩ xấu, hung dữ cũng như các lo buồn đều tiêu tan hết, tâm hồn nhờ đó nhẹ nhàng, thơ thới an vui, cuộc sống đó khác nào ở cảnh Tiên nhà Thánh.

    Nghĩa chữ khó:

    Cửu Huyền - chín đời: Cao Tằng Tổ - Cha - Mình Con - Cháu - Chắt ChítChín thế hệ này, nếu phiên âm bằng chữ Hán: Cao - Tằng - Tổ - Khảo - Kỷ Tử Tôn - Tằng - Huyền.
    - Thất Tổbảy đời ông tổ: Cao - Tằng - Tổ Cao Cao - Tằng Tằng - Tổ Tổ - Cao Tổ. Bảy đời tổ: là Ông Nội của đời mình đi ngược lên sáu đời nữa, gọi Thất Tổ.
    Vọngtưởng nhớ công ơn và gương tốt của Ông Bà.
    Nam MôNamahtiếng Phạn (scr) là qui y, qui mạng, chí tâm hướng về Phật, có nghĩa quyết vâng lời Phật dạy, cung kính nương theo và gởi đời mình cho Phật, xả bỏ hết mọi lo rầu…

    --- oOo ---

    13.-"Ghét những đứa giàu-sang kiêu-hãnh -Thương những người đói-rách cơ-hàn - Cảnh phồn-hoa khó sánh lâm-san - Sau sẽ có nhiều điều vinh-hạnh".

    Luận giải(dòng 21 tới 24, trang 54)

    Ở đời không ai ưa hạng người giàu ỷ nhiều tiền của coi thường kẻ đói rách, nghèo khổ, vì vậy, nên mở rộng lòng thương giúp đỡ những người thiếu may mắn, hoạn nạn. Cảnh thành thị ồn ào khó tu tâm dưỡng tánh, sao bằng nơi không khí trong sạch, vắng vẻ ở núi rừng. Người ngay thật, bền chí tu sẽ có cuộc sống an vui và được đời kính trọng.

    Nghĩa chữ khó:

    Kiêu hãnhcậy mình giàu, tài giỏi mà coi thường người khác; coi không ai bằng mình. 
    Cơ hànđói và lạnh. Chỉ cảnh nghèo khổ.
    Phồn hoacảnh giàu sang ở thành thị, nơi đông đảo, nhiều người lui tới.
    Lâm sanrừng núi.
    Vinh hạnhvinh dự, được người đời kính trọng.

    --- oOo ---

    14.-"Cõi trần-thế hết suy tới thạnh - Hết lâm nguy đến lúc khải-hoàn - Tuy tu hành chịu chữ nghèo-nàn - Sau đắc đạo gặp điều cao-quí".

    Luận giải(dòng 25 tới 28, trang 54)

    Người đời mấy ai giàu suốt kiếp hay nghèo khổ trọn đời, nếu biết cố gắng sẽ vượt qua khổ cực để vươn lên. Tuy nhiên, nếu biết đời là vô thường, thân này là giả và theo lẽ tự nhiên hễ có sanh thì phải bị diệt, không gì bền bĩ, nên người tu, hiểu Đạo, vui sống nghèo trong sạch, giữ lòng thanh thản sớm chiều kinh kệ, bền chí tu hành, chắc chắn sẽ đạt Đạo và được đời kính trọng.

    Nghĩa chữ khó:

    Khải hoànthắng trận trở về. Nghĩa ở đây: được thành công; gặp vui; được giàu và có danh.
    Suy thạnh - Suysuy sụp, rớt xuống chỗ thật thấpThạnh là giàu có, cuộc sống vui, tốt đẹp. Chỉ sự nghèo và giàu, xui và hên ở đời.
    Vô thườngtất cả chúng sanh đều không chừng, không bền vững, có đó mất đó.
    Đắc đạo - Đạt đạo: tu được thành đạo, được sáng suốt, giác ngộ, lòng không còn ham muốn tiền của, không còn thương, ghét, hận thù như người thường ở đời.

    --- oOo ---

    15.-"Mặc bá-tánh đời nầy dị-nghị - Ta ĐIÊN KHÙNG mà tánh lương-hiền - Lòng yêu dân chẳng trọng bạc tiền - Mà dương-thế cứ theo biếm nhẻ - Sau lập Hội thì già hoá trẻ - Khắp hoàn-cầu đổi xác thay hồn".

    Luận giải(dòng 29 tới 34, trang 54)

    Gác ngoài tai lời thế nhân bàn tán, Ngài xưng Điên Khùng mà tâm tánh hiền lành, lòng tha thiết thương dân, không coi trọng bạc tiền, vậy mà phần đông cứ theo cười chê nhạo báng, chẳng mấy ai chịu nghĩ suy, tìm hiểu. Sau này, tới ngày lập Hội, đời mới biết Ngài là ai, chừng đó khắp thế giới con người sống còn sẽ hiểu biết và cải sửa tốt đời sống vật chất lẫn tinh thần.

    Nghĩa chữ khó:

    Dị nghị: so sánh, bàn tán.
    Biếm nhẻchê bai, nhạo báng, cười cợt coi thường.

    --- oOo ---

    16.-"Đức NGỌC-HOÀNG mở cửa thiên-môn - Đặng ban thưởng PHẬT TIÊN với THÁNH - Khuyên trai gái học theo KHỔNG-MẠNH - Sách THÁNH-HIỀN dạy Đạo làm người ".

    Luận giải: (dòng 1 tới 4, trang 55)

    Chỉ những người hiền, tốt mới được sống còn nhìn cảnh Trời mở cửa khai đại hội ban thưởng chư Phật, Tiên, Thánh. Vì thế, nên Ngài khuyên trai gái rán học theo sách dạy đạo lý làm người của các vị Thánh Hiền, Khổng tử và Mạnh tử.

    Nghĩa chữ khó:
    Ngọc Hoàngtheo dân gian là Trời, vị chúa tể tạo ra con người và muôn loài vạn vật.
    KhổngKhổng Phu tử, tên Khổng Khâu hay Khổng Khưu (551-479 trước T.C.) người nước Lỗ, nay thuộc tỉnh Sơn Đông (Tàu), vị tổ của đạo Nho (Khổng giáo). Về đời sống đạo lý của con người, Ngài dạy:
    - Tu thân: sửa mình ngay thẳng, trong sạch, đối xử tốt với mọi người.
    - Tề gia: sắp đặt việc nhà êm đẹp, trên thuận dưới hòa,
    - Trị quốc: điều hành tốt việc quốc gia, làm cho dân giàu nước mạnh.
    - Bình thiên hạ: làm cho thiên hạ yên ổn.
    Mạnhtức Mạnh Kha (372-289 trước T.C.) một vị đại hiền thời Chiến Quốc, người đất Châu, thuộc tỉnh Sơn Đông ngày nay (Tàu), người có công làm sáng tỏ đạo Nho, được đời sau tôn trọng xem là bực Á thánh, (vị Thánh thứ hai) sau đức Khổng Phu tử. Ở Việt Nam, một số điều trong đạo Khổng đuợc chọn lọc, xem như khuôn vàng thước ngọc để mọi người noi theo.

    --- oOo ---

    17.-"Xem truyện thơ chẳng biết hỗ (hổ) ngươi - Mà làm thói Điêu-Thuyền, Lữ-Bố".

    Luận giải(dòng 5 và 6, trang 55)

    Xem truyện thơ sao không biết mắc cở mà học theo thói hư xấu của Điêu Thuyền và bắt chước Lữ Bố sớm theo chiều phản của Lữ Bố.

    Nghĩa chữ khó:

    Điêu Thuyềnca nữ (con hát), con gái nuôi của Vương Doãn có sắc đẹp, được Vương Doãn dùng "kế mỹ nhơn" để diệt Đổng Trác, một gian thần đời nhà Đông Hán (Tàu). Vương Doãn hứa gả Điêu Thuyền cho Lữ Bố, con nuôi của Đổng Trác, rồi lại ngầm đưa Điêu Thuyền cho Đổng Trác, để gây chia rẽ giữa hai cha con nhà này. Kết quả hai người vì ghen mà giết nhau.
    Lữ Bốđời Đông Hán, tự Phụng Tiên, giỏi võ, sức mạnh ít người đánh lại. Ban đầu Lữ Bố theo Đinh Nguyên, sau ham danh lợi, giết Đinh Nguyên qua làm con nuôi Đổng Trác. Vì "kế mỹ nhơn" của Vương Doãn, Lữ Bố say mê Điêu Thuyền, ghen giết Đổng Trác rồi theo làm tướng cho Viên Thuật, sau bỏ Viên Thuật qua phò tá Viên Thiệu. Cuối cùng thua Tào Tháo, Lữ Bố tự tử. Công tâm mà xét, Điêu Thuyền vì vai trò bắt buộc phải lẳng lơ, một lúc lấy hai chồng. Lữ Bố và Đổng Trác thì quá tệ, hai người mê gái đến giết lẫn nhau; riêng Lữ Bố, dầu là tướng mạnh, nhưng luôn thay lòng đổi dạ, sớm theo chiều phản.
    Hổ ngươimắc cở.
    Phản bộiquay lưng lại, quên ơn, nghịch lại, trái lại, hại người ơn có tình nghĩa với mình.

    --- oOo ---


    18.-"Sau kẻ ấy làm mồi mãnh-hổ - Cảnh Núi- Non nhiều thú dị-kỳ - Nó trọng ai hiền đức nhu- mì - Sát phạt kẻ bội cha phản chúa - Đến chừng đó thiên-la lưới bủa - Mới biết rằng TRỜI PHẬT công-bằng".

    Luận giải(dòng 7 tới 12, trang 55)

    Hạng gái không biết giữ gìn đạo lý, tiết trinh, cũng như loại người phản bội quên ơn bỏ nghĩa, sớm thương chiều ghét, đổi dạ thay lòng như thay đổi áo, sau này sẽ làm mồi cho cọp dữ. Trên Non Núi có nhiều thú lạ kỳ, biết kính trọng người hiền đức (người tu, bực hiền đức đôi mắt rất sáng và có ánh sáng hiện quanh đầu, mắt thường khó thấy?) nhưng không tha bè lũ bỏ Cha phản Chúa. Lưới Trời dầu thưa, vẫn không kẻ gian xấu, độc ác nào thoát khỏi, bấy giờ người đời mới thấy rõ sự công bằng của Trời Phật.

    Nghĩa chữ khó:

    Mãnh hổcọp mạnh, dữ.
    Núi Nonchỉ những núi liền nhau, có cao có thấp.
    Dị kỳlạ thường.
    Bội Cha phản Chúaxử tệ, quên công ơn, quên bỏ tình nghĩa của Cha, của Chúa.
    Hiền đứctánh hiền, ngay thật, hay tha thứ, thương giúp đỡ người, thương sanh vật. 
    Nhu mì: dịu dàng, lời lẽ chững chạc, đứng đắn.
    Sát phạtđánh giết.
    Thiên lalưới Trời. 
    Công bằng (bình): ngay và bằng. Tánh ngay thẳng.

    --- oOo ---

    19.-"Nếu dương trần sớm biết ăn năn - Làm hiền-đức khỏi đường lao-lý - Học tả-đạo làm điều tà-mị - Theo dị-đoan cúng kiếng tinh-tà - Thì sau nầy gặp chuyện thiết-tha - Đừng có trách KHÙNG ĐIÊN chẳng cứu"..

    Luận giải(dòng 13 tới 18, trang 55)

    Ngài khuyên dân sớm ăn năn, làm hiền lành tránh xa điều hung ác, sửa tánh răn lòng mới tránh được tội tù khổ sở. Nên sáng suốt xa lánh các đạo chuyên vẽ bùa đọc chú, thờ cúng tà thần, ma quỉ, bày những trò mê tín, dị đoan; những ai đã lỡ theo, nên sớm rời bỏ, tìm về chánh đạo, kẻo ngày sau gặp nguy hiểm Ngài không cứu được.

    Nghĩa chữ khó:
    Dương trần - Dương: mặt trờiTrầnbụi cát - chỉ cõi đời và cũng chỉ con người.
    Lao lý: tội tù, bị giam hảm, không có tự do. Lao là chuồng nuôi thú vật, nhà tù. : ở trong. 
    Tả đạo – Tà đạođạo không được coi là chánh đáng. 
    Dị đoanchuyện khó tin, không hợp lý.
    Tinh tàchỉ chung ma quỉ, loại phá khuấy đời.
    Thiết tha: có tình cảm sâu sắc, gắn bó. Nghĩa ở đây chỉ việc ngặt nghèo rất cần được cứu giúp.

    --- oOo ---

    20.-"Thấy-bá tánh nghinh tân yểm cựu - Học ai mà ngang-ngược nhiều lời - Phụ mẹ cha khinh-dể PHẬT TRỜI - Chẳng có kể công sanh dưỡng-dục".

    Luận giải(dòng 19 tới 22, trang 55)

    Người đời ham chạy theo cái mới quên bỏ những lời dạy bảo hay, tốt của Thánh Hiền, của Tổ tiên, bắt chước bọn người hư xấu, học tập thói ngang ngược hỗn láo, lớn tiếng nhiều lời khinh dể Phật Trời, phụ bỏ Mẹ Cha, không kể gì công ơn mang nặng đẻ đau dưỡng nuôi cực khổ.

    Nghĩa chữ khó:

    Nghinh tân yểm cựuđón cái mới quên bỏ cái cũ. 
    Ngang ngượctrái với lẽ phải; không kể gì lẽ phải trái.
    Phụ: làm trái ngược, quên công ơn người đã cứu giúp.
    Khinh dểcoi không ra gì, xem như rơm rác.
    Dưỡng dụcnuôi dạy - nuôi nấng và dạy bảo.

    --- oOo ---

    21.-"Thương lê-thứ bày tường trong đục - Mặc ý ai nghe phải thì làm - Lời của người di-tịch NÚI-SAM - Chớ chẳng phải bày điều huyễn-hoặc".

    Luận giải(dòng 23 tới 26, trang 55)

    Thương dân Ngài đã nói hết lời, chỉ dạy rõ ràng những điều đúng sai, phải trái, ai nghĩ suy thấy đúng thì làm, chớ không nài ép. Ngài cho biết đó là những lời của Đức Phật Thầy để lại, không phải Ngài đặt bày nói chuyện khó tin.

    Nghĩa chữ khó:

    Lê thứ: dân thường, dân không chức phận.
    Huyễn hoặcchuyện khó tin.
    Di tịchlời của người chết để lại. Bực tu đắc đạo chết gọi là tịch. Đức Phật Thầy Tây An tịch diệt, nhục thân Ngài chôn tại Núi Sam.

    --- oOo ---

    22.-"Cảnh Thiên-Trước thơm-tho nồng-nặc - Chẳng ở yên còn xuống phàm-trần - Ấy vì thương trăm họ vạn dân - Giả QUÊ DỐT khuyên người tỉnh ngộ * (Nên chẳng kể tấm thân lao khổ)".

    Luận giải(dòng 27 tới 30, trang 55)

    Ngài không đành ngồi yên ở Thiên Trúc, nơi không khí trong lành, bốn mùa hương sen ngào ngạt, vì lòng thương dân đang ngụp lặn trong đau khổ, mới xuống trần giả QUÊ giả DỐT đi khắp nơi chỉ dạy cho người đời hiểu biết về Đạo Phật nhằm mang an vui hạnh phúc cho thế nhân.
    - * Ấn bản 1998 in Nên chẳng kể tấm thân lao khổ.

    Nghĩa chữ khó:
    Thiên trướccác nước chung quanh nước Tàu đều gọi Ấn Độ là Thiên trước. Các nhà tu Phật vẫn gọi như vậy. Ngoài tiếng Thiên trước, Thiên trúc, còn kêu Tây vực.
    Nồng nặcnghĩa ở đây là hương thơm lan tỏa rộng ra.
    Phàm trầnnơi con người đang sống; chỉ người đời.
    Lao khổcực nhọc, tốn nhiều sức lực, mệt mỏi.

    --- oOo ---

    23.-"Nên chẳng kể tấm thân lao-khổ * (Giả quê dốt khuyên người tỉnh ngộ) - Giả BÁN BUÔN thức giấc người đời - Rằng ngày nay có PHẬT có TRỜI - Kẻo dân-thứ nhiều người kiêu-ngạo".

    Luận giải(dòng 31 tới 34, trang 55)

    Ngài không kể tấm thân cực khổ, khi thì giả người Buôn Bán khuyên dạy dân sửa tánh ngược ngang, kiêu ngạo, bỏ mê tối theo về đường sáng, chỉ rõ đạo lý, việc đúng điều sai, biết kính trọng Phật Trời.
    - * Ấn bản 1998 in Giả quê dốt khuyên người tỉnh ngộ.

    Nghĩa chữ khó:

    Tỉnh ngộhết mê tối, biết sai mà sửa điều hư xấu. 
    Dân thứ-Thứ dândân thường, dân không chức quyền.
    Kiêu ngạochê, chế nhạo; cho mình hơn mà khi người. Không tin có Trời Phật, Thánh Thần.

    --- oOo ---

    24.-"Xuống mượn xác nhằm năm Kỷ-Mão - Buồn xóm làng cứ ghét ĐIÊN KHÙNG - Nếu trẻ già ai biết thì dùng - Chẳng có ép có nài bá-tánh - Nghe ĐIÊN dạy sau này thơi-thảnh
    - Đây chỉ đường CỰC-LẠC vãng-sanh - Đừng có ham lên mặt hùng-anh - Sa địa ngục uổng thân uổng kiếp"

    Luận giải: (dòng 35 - 36, trang 55 và 1 tới 6, trang 56)

    Vì cứu đời, năm Kỷ Mão (1939) Ngài xuống thế gian mượn xác phàm trần, chịu cực khổ đi khắp nơi dạy Đạo, vậy mà dân ở xóm làng không hiểu biết nỡ lòng ghét Ngài. Với mấy lời khuyên bảo này, già với trẻ ai nghe mà biết sửa tánh răn lòng, làm việc hiền xa điều dữ thì đời sống sẽ thong thả yên vui. Đây là Ngài chỉ dạy đường tu chớ không nài không ép. Ngài mong sao kẻ thế trần đừng ham làm ra vẻ tài ba, cho rằng mình hay, mình giỏi mà khi dể mọi người, rồi ngày sau rơi xuống địa ngục uổng thân uổng kiếp.

    Nghĩa chữ khó:

    Ép-nàimời, đòi cho được; cố nói cho người nghe theo.
    Bá tánhtrăm họ, chỉ chung người trong nước.
    Thơi thảnh - Thảnh thơikhông phải lo nghĩ điều gì ...
    Cực lạc vãng sanhsanh về nơi thanh tịnh, an vui.
    Lên mặtlàm phách, làm cao, lúc nào cũng tỏ ra hơn người, coi thường những kẻ chung quanh. 
    Hùng anhkẻ có tài giỏi hơn người đồng thời.
    Địa ngụcnơi trừng phạt hồn người ở cõi chết; cũng chỉ nơi tận cùng của đau khổ.
    Uổng: mất đi một cách vô ích.
    Kiếpđời người, khoảng ngày giờ khi con người sanh ra tới lúc chết.

    --- oOo ---

    25.-"Theo đạo-lý nhứt tâm mới kịp - Ngày nay đà gặp việc (dịp) tu-hành - Niệm Di-Đà rán niệm cho rành - Thì mới được sống coi TIÊN- THÁNH". - * Ấn bản 1998 in gặp dịp.

    Luận giải(dòng 7 tới 10, trang 56)

    Thế gian sắp tới kỳ tiêu diệt, vì ngày tháng không còn nhiều nên Ngài chỉ dạy pháp môn Tịnh Độ, nếu người tu quyết tâm sớm chiều niệm tưởng Đức Phật A Di Đà, giữ lòng yên tịnh, không để tạp niệm nảy sanh thì chơn tâm khỏi bị phiền não ngăn che, nhờ vậy, trí huệ mới phát sanh. Khi tâm trí sáng suốt, tất cả ham muốn tầm thường về thể xác sẽ tiêu tan. Đây là dịp may, phải rán bền lòng tu học mới mong có đời sống thảnh thơi hạnh phúc, còn được tận mắt nhìn Tiên với Thánh.

    Nghĩa chữ khó:

    Đạo lýnghĩa lý chơn chánh của tôn giáo. Những phép tắc các bực Thánh Hiền từ xưa lưu lại được xã hội thừa nhận làm mẫu mực trong quan hệ đối xử với nhau.
    Nhứt tâmmột lòng, quyết giữ một lòng không thay đổi. 
    Tu hành - Tu:
    - sửa đổi lại cho tốt hơn truớc. 
    - sửa mình: theo đạo lý mà sửa đổi việc ăn ở, tánh tình, lời nói, cách đối xử với mọi người.
    - Hànhlàm đúng những điều Phật dạy, giữ đứng đắn cách thức của người tu.
    Niệm Di Đàxin xem số 8. - Thánhxin xem số 9.
    Tiênngười tu theo đạo Lão, sống an nhàn ở núi non. Nghĩa bóng: những vị dứt bỏ danh lợi, không vướng bận những ghét ưa, thương giận, oán thù, lánh mình nơi non cao an dưỡng tinh thần, cuộc sống đó là … tiên.

    Phụ giải:

    Pháp môncách dạy tu. Các lý lẽ đức Phật dạy, chư đệ tử của Phật lấy đó làm phép tắc, gọi là pháp, do pháp đó tu học và thành Đạo, gọi là môn. (cửa vào Đạo)
    Tịnh độ có hai nghĩa:
    a/- Pháp môn dạy niệm danh hiệu Đức Phật A-Di-Đà và cầu được sanh về cõi Tịnh độ.
    b/Cõi đất trong sạch của Đức Phật A Di Đà ở Tây phương, nơi yên lành, không bị nhiễm dơ.
    Chơn tâm: lòng chơn thật, trong sạch không nhiễm dơ bởi cảnh xấu, bởi tư tưởng xấu.

    --- oOo ---

    26.-"ĐỨC MINH-CHÚA chẳng ai dám sánh - Xưa mạt Thương phụng gáy non Kỳ - BỞI VÕ-VƯƠNG đáng bực tu-mi - Nay trở lại khác nào đời trước".

    Luận giải(dòng 11 tới 14, trang 56)

    Nước Tàu ngày xưa khi nhà Thương sắp mất, chim phụng gáy ở Kỳ sơn báo hiệu vua hiền sẽ ra đời, đó là Châu Võ Vương, một anh hùng, một vì vua tài đức. Đời nay cũng giống như thời kỳ nhà Châu lập quốc, Việt Nam sẽ có vị vua tài đức ra đời.

    Nghĩa chữ khó:

    Minh Chúavị vua sáng suốt, hiền đức hết lòng thương và chăm lo đời sống cho dân.
    Mạt Thương: nghĩa là nhà Thương sắp dứt (1783-1135 trước Tây lịch). Nhà Thương do vua Thành Thang sáng lập, truyền đến vua Trụ, đời thứ 28, ông vua độc ác, tham dâm, hiếu sắc, không thương dân; triều đại 644 năm thì mất về nhà Châu, tức Châu Võ Vương Cơ Phát.
    Phụng hay phượng: giống chim linh, được xem là chúa loài chim, nhưng ít người thấy. Phượng: chim trống,Hoàng - Loanchim mái.
    Tu mi - TurâuMichơn mày, chỉ đàn ông con trai. Nước Tàu ngày xưa chỉ đàn ông mới để chơn mày, đàn bà thì nhổ hết. Nghĩa bóng chỉ người đàn ông tài đức.
    Đức: vui thích làm điều lành; hay tha thứ, thương giúp người, thương sanh vật, ăn ở phải đạo.

    --- oOo ---

    27.-"Kẻ gian-ác bị gươm ba thước - Nơi pháp- tràng trị kẻ hung-đồ - Được thảnh-thơi nhờ chữ NAM-MÔ - Khuyên bổn-đạo rán mà trì- chí".

    Luận giải(dòng 15 tới 18, trang 56)

    Kẻ gian ác và bọn người hung dữ ngang ngược sau này bị xử chém bằng gươm. Ngài khuyên các vị tu học Phật rán bền lòng chặt dạ tin tưởng nơi giáo lý của đức Thế Tôn. Đạo Phật ra đời nhằm cứu khổ cho người đời, nên người tu học phải giữ gìn giới luật, nếu tất cả mọi người đều làm lành, xa dữ, thì xã hội này, thế giới này được sống trong an lành và hạnh phúc.

    Nghĩa chữ khó:

    Gươm ba thướcthanh gươm dài ba thước (một thước ngày xưa là ba tấc ba mươi ba: 03.33 mét)
    Pháp tràng - Pháp trườngnơi xử chém tử tội.
    Hung đồđảng dữ, phe nguời hung dữ.
    Thảnh thơirảnh, thung dung, không bận lo nghĩ.
    Trì chíbền chí, bền lòng; dầu gặp khó khăn nguy hiểm lòng vẫn không thay đổi. 

    --- oOo ---

    28.-"Xưa TÂY-BÁ thất-niên Dũ-Lý - Huống chi ta sao khỏi tiếng đời -Dòm biển trần cảnh khổ vơi vơi -Lao với khổ khổ lao chẳng xiết".
    Luận giải(dòng 19 tới 22, trang 56)

    Ngày xưa Tây Bá Hầu, một bực đại hiền còn phải chịu tù oan bảy năm ở Dũ Lý, nên sá gì miệng đời bàn tán, khen chê. Ngài hết lòng mang nền đại Đạo của Đức Thích Ca vào đời giảng dạy, là mong giải cứu thế nhân khỏi cảnh lặn hụp, ngập chìm trong biển trần khổ minh mông, nỗi khổ đau mà không lời lẽ, không bút mực nào kể hết được.

    Nghĩa chữ khó:

    Tây Bátức Tây Bá Hầuchỉ Cơ Xương, vua một nước nhỏ thời mạt Thương (Tàu), Cơ Xương là một bực hiền, được người thời bấy giờ xem như vị Thánh. Ông biết số mạng mình phải bị tù oan bảy năm, nên dằn lòng chịu giam nơi thành Dũ Lý. Con Ông là Cơ Phát hội binh với các nước nhỏ cùng đánh Trụ, tức nhà Thương (xin xem Mạt Thương, số 26). Dẹp xong nhà Thương, Cơ Phát lên ngôi vua, xưng Châu Võ Vương, phong cho cha là Cơ Xương, tước Châu Văn Vương
    Biển trần: nhà Phật ví đời là biển khổ. 
    Vơi vơivời vợi, diệu vợi, xa xôi, minh mông, rộng lớn.
    Lao khổxin xem số 22.

    --- oOo ---


    29.-"Ghét bạo chúa là xưa Trụ Kiệt - Mất cơ-đồ lại bị lửa thiêu - Thương MINH-VƯƠNG bắt chước THUẤN-NGHIÊU - Lòng hiền đức nào ai có biết".

    Luận giải(dòng 23 tới 26, trang 56)

    Ghét hai vua tàn ác ngày xưa là Trụ và Kiệt, không thương dân, ham vui chơi, thích giết người mới mất nước, rồi kẻ phải đốt mình, người bị tù đày. Vị Minh Vuơng sẽ noi gương hai vua Thuấn – Nghiêu, lòng hiền đức của Ngài bây giờ chưa ai hay biết.

    Nghĩa chữ khó:

    Bạo chúavua hung ác xem rẻ mạng người.
    Trụ(xin xem Mạt Thương số 26) Kiệtvua nhà Hạ (Tàu), có sức mạnh, giỏi võ nhưng ác, ăn xài quá mức, ham rượu và gái, mê nàng Muội Hỷ bỏ bê việc nước, bị vua Thang đem quân đánh bắt đày ra Nam Sào, dứt nhà Hạ, lập nên nhà Thương mà vua Trụ làm mất sau này.
    Cơ đồ: sự nghiệp lớn, chỉ về đất nước. 
    Lửa thiêuvua Trụ tự đốt mình tự tử, không để bị bắt.
    Minh Vươngvị vua sáng suốt, tài đức, mà tín đồ PGHH tin Ngài là vị vua tương lai của Việt Nam. 
    Thuấn-Nghiêu(Tàu - 2357-2256) trước Tây lịch. Vua Nghiêu họ Y Kỳ, tên Phong Huân, đóng đô ở Bình Dương, là vị vua hiền, chăm lo cho dân, sáng suốt, ngay thẳng, nước nhà thời đó rất yên vui. Vua Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn (2256-2208), tên Trùng Hoa, là người hiền, chớ không giao ngôi cho con. Vua Thuấn đóng đô ở Bồ Bản, tỉnh Sơn Tây ngày nay (Tàu). 
    Hiền đứchiền, ngay thật, hay tha thứ, thương và giúp người, thương sanh vật.

    Phụ giải:

    Đóng đônơi vua đặt bộ máy cai trị.

    --- oOo ---

    30.-"Thương trần-thế kể sao cho xiết - Mượn xác-trần bút tả ít hàng - Kể rõ-ràng những việc lầm-than - Mặc làng xóm muốn nghe thì chép - Việc tu-tỉnh KHÙNG không có ép - Cho giấy vàng ĐIÊN chẳng có nài ".

    Luận giải(dòng 27 tới 32, trang 56)
    Vì thương dân, Ngài xuống trần mượn xác phàm đi khắp nơi dạy Đạo cứu độ người đời, ngoài những lời giảng giải,Ngài còn viết rõ ra trên giấy trắng mực đen những điều hay lẽ phải, cách tạo cuộc sống hạnh phúc an vui. Ngàikhông nài ép hay bắt buộc ai phải ăn năn cải sửa, tu hành. Nhưng trong xóm làng, nếu ai tin tưởng thì chép lại dành khi rảnh rỗi lấy ra xem, Ngài cũng không nệ hà việc dùng giấy vàng trị bịnh, vì đây chỉ là phương tiện nhằm gây niềm tin để hướng dẫn người đời vào Phật Đạo mà thôi.

    Nghĩa chữ khó:

    Trần thế: xin xem số 5.
    Lầm thanđói khổ, chịu đựng quá nhiều khó khăn.
    Tu tỉnhxét kỹ lòng thấy lỗi lầm, ráng từ bỏ và sửa đổi.

    --- oOo ---

    31.-"Lòng yêu dân chẳng nệ vắn dài - Cho bổn-đạo giải khuây niệm PHẬT - Việc xảy đến ĐÂY truyền sự thật - Ấy là lời của PHẬT giáo-khuyên".

    Luận giải(dòng 33 tới 36, trang 56)

    Lòng thương yêu dân Ngài không nệ hà khó khăn, cực nhọc, đi khắp nơi nhắc nhở mọi người làm lành xa dữ, khuyên dạy niệm Phật tu hành và Ngài cũng báo trước những việc đau khổ sẽ xảy ra. Ngài mong sao ai nấy đều hiểu rằng những lời nói này là lời của Phật, không bao giờ sai trật.

    Nghĩa chữ khó:

    Nệquản ngại, e ngại.
    Giáo khuyên - Khuyên nhủ hay Khuyến nhủchỉ dạy với lời lẽ dịu dàng mà không ép buộc.

    --- oOo ---

    32.-"Rán nghe lời của kẻ KHÙNG-ĐIÊN - PHẬT TIÊN THÁNH hãy nên trọng kỉnh - Bịnh ôn-dịch cũng đừng mời thỉnh -Cõi ngũ- hành chẳng khá réo-kêu- Hãy gìn lòng chớ khá dệt-thêu-Nói xiên-xỏ cũng không no béo".

    Luận giải(dòng 1 tới 6, trang 57)

    Ngài khuyên dân rán nghe lời của Ngài mà kính trọng Phật, Tiên, Thánh; đừng kêu mời bịnh ôn dịch hay réo gọi ngũ hành về hại người; lòng lúc nào cũng phải giữ ngay thật, đừng nói thêm, không nói bớt hoặc nói xéo nói xiên, đó là thói xấu nên tránh.

    Nghĩa chữ khó:

    Phật - Tiên – Thánhxin xem số và 9.
    Ôn dịch: ói mửa, tiêu chảy không ngừng, bịnh hay lây, dễ chết người vì cơ thể khô nước. Người nhà quê tin là thần ôn dịch phạt, nên cúng heo, bò, gà, cầu xin tha thứ. 
    Ngũ hành: năm chất cần thiết cho sự sinh hoá và sống còn của muôn loài vạn vật: Kim, hướng Tây, Mộc, hướng Đông, Thủy, hướng Bắc, Hoả, hướng Nam, Thổ, Trung ương. Người xưa tin theo chuyện Tàu, có năm vị Thần Tiên cai quản: Kim (kim loại) ở hướng Tây, thuộc Diêu Trì Kim Mẫu; Mộc (cây) thuộc Đông Huê Đế Quân; Thủy (nước) thuộc Bắc Huê Đế Quân; Hỏa (lửa) thuộc Nam Huê Đế Quân; Thổ (đất) thuộc Trung Huê Đế Quân. Năm vị rất có uy quyền, nên các bà hung ác hay kêu mời về trừng trị kẻ nào bị các bà thù, ghét. 
    Dệt thêuviệc khéo tay của phụ nữ. Nghĩa bóng chỉ những bịa đặt có ác ý, khéo thêm bớt, chuyện không nói có, làm cho người hiểu lầm mà giận hờn, thù ghét nhau. 
    Nói xiên xỏnói quanh co châm chọc ai đó nhưng không chỉ ngay người.

    --- oOo ---

    33.-"Đời Nguơn-Hạ ngày nay mỏng-mẻo - Khuyên thế-trần hãy rán kiêng-dè - Mặc tình ai lên ngựa xuống xe - Ta chẳng có ham nơi phú-qúi".

    Luận giải(dòng 7 tới 10, trang 57)

    Vì đời Hạ Nguơn sắp dứt, nên Ngài khuyên dân hãy rán dè dặt, giữ gìn, mặc cho ai lên ngựa xuống xe, bởi công danh, sự nghiệp, tiền tài không phải là yếu tố mang hạnh phúc lại cho đời sống. Hãy nên yên phận, đừng ham của tiền, danh vọng mà làm điều sai trật.

    Nghĩa chữ khó:

    Nguơn Hạ - Hạ Ngươn - Hạ Nguyêntheo lịch số Đông phương (Bảng ghi ngày giờ năm tháng vận chuyển theo mặt trăng và một số ngôi sao) chia làm ba nguơn, mỗi nguơn là một thời kỳ, con người mỗi ngươn có cuộc sống khác biệt về đạo đức cũng như tánh tình:
    - Thượng nguơncon người hoàn toàn tốt, thế giới trong sạch, yên vui.
    - Trung nguơncon người bắt đầu hư, lơ là việc dưỡng tánh tu tâm, đời khởi sự có bụi dơ.
    - Hạ nguơnhiện chúng ta đang sống, con người quá tệ bạc, quá gian ác, xấu xa ... theo Phật giáo, thì cõi đời này là hạ ngươn, sắp chấm dứt để lập lại thượng ngươn.
    Kiêng dègiữ gìn ý tứ, dè dặt, e dè.
    Lên ngựa xuống xechỉ sự giàu có sang trọng.
    Phú qúi: giàu tiền của, sống sang trọng.

    Phụ giải:

    Sang trọngvẻ cao quý, ăn xài rộng được đời nể trọng.
    34.-"Trong bổn-đạo từ nay kim-chỉ - Đói với nghèo sắp đến bây giờ - Vì thương đời nên LÃO kể sơ - Cho bá-tánh rõ lời châu ngọc".

    Luận giải(dòng 11 tới 14, trang 57)

    Anh chị em trong gia đình nhà Phật từ nay nên cần kiệm, đói với nghèo sắp tới bây giờ. Dầu thương dân nhưng vì không thể nói rõ sự sắp đặt của Trời, của Phật, Ngài chỉ kể sơ để người đời rán mà tìm hiểu ý nghĩa trong những lời khuyên quí báu này.

    Nghĩa chữ khó:

    Bổn đạo: đạo nhà. Nghĩa rộng: người trong đạo Phật, trong gia đình nhà Phật.
    Kim chỉcây kim và sợi chỉ may tuy là vột nhỏ mọn, không đáng giá nhưng cũng nên gìn giữ, ngoài việc nói về sự khéo tay may vá của phụ nữ, ý ở đây khuyên nên cần kiệm, việc đáng mới xài, tiền của phải dành để phòng khi có việc cần, hoặc dùng giúp đỡ người.

    Phụ giải:

    Cần kiệmtánh tốt của người biết xài tiền đúng lúc. 

    --- oOo ---

    35.-"Nước NAM-VIỆT ai là thằng ngốc - Người đời nay như ốc mượn hồn - Chim tìm cây mới gọi chim khôn - Người hiền-đức mới là người trí".

    Luận giải(dòng 15 tới 18, trang 57)

    Nhiều người chẳng lo nghĩ gì về tương lai đất nước, không quan tâm gìn giữ đạo lý của Tổ Tiên, không cần biết ngày mai sẽ ra sao, sống thu mình như loài ốc mượn hồn. Con chim khôn còn biết chọn cây to, cành chắc đậu, người khôn có trí óc phải xét nhìn thời thế, vận mạng quê hương dân tộc, tìm người tài đức theo giúp, hoặc chọn cho mình cuộc sống trong sạch, đạo đức, biết tìm Đạo chánh tu thân và trau sửa tâm hồn.

    Nghĩa chữ khó:

    Ngốcngu dại, kém trí khôn, kém suy xét và xử sự. 
    Ốc mượn hồnloại tôm nhỏ, có đủ: râu, mắt, càng, que, nhưng thân mình như cục thịt, không vỏ cứng nên phải tìm vỏ ốc trống chui vào tránh các sinh vật khác ăn thịt. Tiếng Ốc mượn hồn chỉ loại người yếu đuối, lúc nào cũng cần sự che chở; sống co rút tìm yên thân. 
    Chim khôn: theo ý hai câu thơ xưa: "Hồ mã tê bắc phong, Việt điểu sào nam chi" (ngựa Hồ hí gió bắc, chim Việt làm ổ cành Nam). Giống ngựa ở các xứ phía bắc nước Tàu bị đưa ra khỏi nước, khi gió bắc thổi, nhớ quê hương hí lên. Giống chim nước Việt thường làm ổ ở cành cây phía Nam, tức về hướng đất Việt. Nghĩa bóng: không quên nơi sanh đẻ và nguồn gốc của mình. Theo chuyện: Hớn Võ đế được nước Hồ (phía bắc nước Tàu) tặng con ngựa hay; ngựa đó nhớ xứ, buồn ít ăn uống và hí thê thảm mỗi khi có gió bắc. Đời Hùng Vương tặng vua Tàu một con trĩ trắng; chim ấy luôn chọn những cành cây chỉ về hướng Nam mà đậu. 
    Câu này theo chúng tôi, có nhiều ý:
    - Người khôn không chạy theo những kẻ giàu sang có nhiều quyền thế mà gian ác;
    - Người khôn không nên chạy theo sống nhờ với quân giặc cuớp đất nước mình;
    - Nguời khôn biết chọn Chúa hiền để thờ, chọn Đạo chánh mà theo;
    - Người khôn biết chọn cho mình cuộc sống và nghề nghiệp ngay thẳng, luôn giữ gìn đạo đức.

    --- oOo ---

    36.-"Theo PHÂT-GIÁO sau này cao-quí - Được nhìn xem NGỌC ĐẾ xử phân - Lại dựa kề Bệ- Ngọc Các-Lân - Cảnh phú quí nhờ ơn PHẬT- TỔ".

    Luận giải(dòng 19 tới 22, trang 57)

    Bực tu hành ngay thật chắc chắn sẽ có cuộc sống an vui, được người đời quí trọng và ngày sau còn gần gũi, nhìn tận mắt sự phán xét của Ngọc Đế, đó là nhờ Phật Tổ ban bố đức ơn.

    Nghĩa chữ khó:

    Ngọc Đế hay Ngọc Hoàngtheo niềm tin dân gian là vua Trời đấng tạo ra muôn loài vạn vật. 
    Bệ Ngọcbực thềm lên chỗ Ngọc Đế ngồi có cẩn ngọc. 
    Các Lângác chạm hình kỳ lânBệ ngọc các lân: chỉ nơi vua Trời ngồi.

    --- oOo ---

    37.-"Thấy bá tánh nhiều điều tai-khổ - KHÙNG thương dân nên phải hết lời - Dạo Lục-Châu chẳng có nghỉ-ngơi -Mà lê-thứ nào đâu có biết".

    Luận giải(dòng 23 tới 26, trang 57)

    Thương người đời nhiều nạn khổ, Ngài đi khắp sáu tỉnh miền Nam, hết lời giảng dạy Đạo lý đến nỗi không có thì giờ nghỉ ngơi vậy mà có mấy ai hay biết.

    Nghĩa chữ khó:

    Tai khổtai họa và lao khổđiều thiệt hại đến đời sống.
    Lục châunăm 1831 vua Minh Mạng ký sắc lịnh thành lập sáu châu ở miền Nam Việt Nam mà sau này kêu là tỉnh: Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.

    Phụ giải:

    Lục Châu đến thời Pháp cai trị đổi thành 20 tỉnh: 1.- Gia Định. 2.- Châu Đốc. 3.- Hà Tiên. 4.- Rạch Giá. 5.- Trà Vinh. 6.- Sa Đéc. 7.- Bến Tre. 8.- Long Xuyên. 9.- Tân An. 10.- Sóc Trăng. 11.- Thủ Dầu Một. 12.- Tây Ninh. 13.-Biên Hoà. 14.- Mỹ Tho. 15.- Bà Rịa. 16.- Chợ Lớn. 17.- Vinh Long. 18.Gò Công. 19.- Cần Thơ. 20.Bạc Liêu. 

    --- oOo ---

    38.-"Dạy Đạo chánh vì thương NAM-VIỆT - Ở CAO-MIÊN vì mến TẦN-HOÀNG - Trở về NAM đặng có sửa sang - Cho thiện-tín đuợc rành chơn lý".

    Luận giải(dòng 27 tới 30, trang 57)

    Vì thương dân Việt nên Ngài hết lòng giảng dạy về nền Đạo của Đức Thích Ca, còn thời gian ở Cao Miên là mến vua nước này. Nay Ngài trở về Nam tiếp tục chỉ dạy cho người tin Phật hiểu biết thêm lý lẽ chơn chánh cùng ý nghĩa cao sâu của Phật giáo.

    Nghĩa chữ khó:

    Đạo Chánhđường ngay; đạo chơn chánh. 
    Cao MiênCam Bốt - Khờ Me - Campuchia ngày nay.
    Tần Hoàngchỉ vua Cao Miên.
    Thiện tínnam nữ lòng lành tin Phật, ở nhà vừa làm ăn vừa tu học.
    Chơn lýlẽ thiệt, lẽ đúng đắn của sự việc, của nền đạo.

    --- oOo ---

    39.-"Trong Sáu Tỉnh nhiều điều tà-mị - Tu hành mà vị kỷ quá chừng - Thì làm sao thoát khỏi trầm luân - Khuyên bổn đạo rán tầm nẻo chánh -Chừng lập Hội xác thân mới rảnh - Nếu không thời khó thấy PHẬT TRỜI".

    Luận giải(dòng 31 tới 36, trang 57)

    Miền Nam có nhiều nhà tu làm điều sai trật, gian dối, chỉ lo nghĩ về mình, tu cách đó tránh sao khỏi ngập chìm trong biển khổ. Ngài khuyên những ai tu Phật nên rán giữ gìn đường ngay lẽ chánh, một lòng thành thật sớm tối kệ kinh làm đúng lời Phật dạy, được như vậy, đến ngày lập Hội thân xác mới còn, bằng không, khó sống để thấy sự thưởng phạt của Phật Trời.

    Nghĩa chữ khó:

    Tà mịgian dối. 
    Lập HộiHội của Phật Trời lựa chọn người hiền đức. Nghĩa bóng chỉ người tu cũng phải trải qua một cuộc "thi cử" gay go, ai thiếu tài đức không qua được Hội này. Theo PGHH, lập Hội Long Vân - Hội Mây Rồng - Hội Long Hoa để chọn người hiền đức. Có một giải thích khác: Hội Long Hoa, do Phật Di Lạc khai hội dưới cội Long Hoa. (3 hội, theo Kinh Tâm Địa Quán).
    Vị kỷích kỷ, chỉ lo cho riêng mình. 
    Trầm luânchìm trong biển khổ nhiều kiếp.

    --- oOo ---

    40.-"KHÙNG dạy dân chẳng dám nghỉ ngơi - Đi chẳng kể tấm thân già cả - Cảnh trần thế mặc ai thong thả - Chớ lòng ta chẳng đắm hồng trần".

    Luận giải(dòng 1 tới 4, trang 58)

    Thương dân Ngài không nài cực khổ, chẳng kể thân già yếu, đi khắp nơi dạy Đạo không dám nghỉ ngơi. Ở thế gian mặc ai tìm hưởng sang giàu, thong thả, riêng Ngài, lòng không vương chút bụi hồng.

    Nghĩa chữ khó:

    Đắmchìm xuống đáy nước. Nghĩa bóng: mê, say.
    Hồng trần: bụi cát đỏ hung hung, bụi hồng. Nghĩa bóng chỉ cõi đời bụi cát, lăng xăng, ồn ào.

    --- oOo ---

    41.-"Có thân thì rán giữ lấy thân - Để đến việc ăn năn chẳng kịp - Yêu những kẻ tâm đầu ý hiệp - Mến những ai biết kiếm Đạo mầu - Cảnh TÂY-THIÊN báu ngọc đài * (đầy) lầu - Rán tu tỉnh tìm nơi an dưỡng".

    Luận giải(dòng 5 tới 10, trang 58)

    Người đời rán giữ gìn cuộc sống của mình cho lành mạnh để về sau khỏi phải ăn năn hối tiếc. Nên mến yêu bạn đồng tâm ý, biết sống đạo hạnh, để cùng nhau đạt đến an vui, thảnh thơi an tịnh.
    Ấn bản 1998 in đầy lầu.

    Nghĩa chữ khó:

    Ăn năntiếc đã làm lỗi nên quyết cải sửa.
    Tâm đầu ý hiệphợp ý và hiểu nhau; cùng những tình cảm và cách suy nghĩ giống nhau. 
    Tu tỉnhtự xét thấy lỗi lầm nên quyết tâm sửa đổi.
    Tây ThiênTrời Tây, hay Tây Trúc, Thiên Trúc, Tây vực, chỉ nơi Đức Phật giáng sanh. Nghĩa bóng chỉ nơi hoàn toàn trong sạch, không lo buồn, không đau khổ ! 
    An dưỡngnghỉ ngơi, tâm trí rảnh rang.

    --- oOo ---

    42.-"Kẻ hiền đức sau này được hưởng - Phép Thần Linh của ĐỨC DI-ĐÀ - Lại được thêm thoát khỏi TA BÀ - Khỏi luân chuyển trong vòng Lục Đạo".

    Luận giải(dòng 11 tới 14, trang 58)

    Đạo Phật ra đời là để cứu khổ người đời, nên các bực tu hành hiền đức, thành lòng học Đạo sẽ nhờ ơn Đức Phật A Di Đà cứu độ, thoát cõi Ta Bà, khỏi phải luân chuyển trong sáu nẻo luân hồi nữa.

    Nghĩa chữ khó:

    Hiền đứchiền, ngay thật, rộng lòng tha thứ, vui vẻ giúp người bằng tình thương, trọng sanh mạng thú vật.
    Phép thần linhsức mạnh vô hình về tài phép của Phật.
    Ta Bàlà Kham nhẫn. Kham: có thể chịu đựng được. Nhẫn: nhận chịu, cam chịu. Vì cõi ta bà này quá nhiều người tham ác, một thế giới bụi dơ rất khó tu, do đó cần có đức kiên nhẫn chịu đựng được mọi sự khổ.
    Luân chuyểnthay đổi, xoay chuyển như bánh xe quay giáp vòng rồi lại tiếp tục.
    Lục Đạo: sáu đường luân hồi: 1.- Thiên (Tiên). 2.- A tu la (Thần). 3.- Nhơn (Người) 4.- Địa ngục (Nhà tù cõi âm phủ). 5.- Ngạ quỉ (Ma đói)6.- Súc sanh (Thú vật). 

    Phụ giải:

    Luân hồi - Luânbánh xe quay theo vòng tròn. Hồiquay lại, trở về.

    --- oOo ---

    43.-"ĐỨC DIÊM CHÚA yêu người hiền thảo - Trọng những ai biết niệm DI-ĐÀ - Lại được gần Bệ Ngọc Long Xa - Coi chư quốc tranh giành châu báu".

    Luận giải(dòng 15 tới 18, trang 58)
    Đức Diêm Vương thương người hiền đức, hiếu thảo, và cũng trọng những ai thành lòng niệm tưởng Phật, ngay thật tu hành, vì những vị này ngày sau sẽ được dựa kề bệ ngọc xem các nước tranh giành quyền lợi.

    Nghĩa chữ khó:

    Long xaxe chạm rồng của vua dùng.

    --- oOo ---

    44.-"Trai nhỏ tuổi kính thành trưởng lão - Gái bé thơ biết trọng tuổi già - Rán tỉnh tâm dẹp được lòng tà - Thì được thấy PHẬT,TIÊN, THẦN, THÁNH".

    Luận giải(dòng 19 tới 22, trang 58)

    Ngài khuyên trai cùng gái phải biết kính trọng các bực tu hành với người cao tuổi. Ngài cũng khuyên thế nhân nên tỉnh tâm xét kỹ lại lòng để sửa bỏ điều sai quấy, rồi rán tu và làm hiền; được vậy mới hy vọng sống còn nhìn Phật, Tiên, Thần, Thánh.

    Nghĩa chữ khó:

    Trưởng lãocác vị đạo đức cao; người già nhiều tuổi.
    Tỉnh tâmxin xem số 5.
    Lòng tàlòng không ngay thẳng; tính toán gian dối, suy nghĩ điều sai quấy, tính điều ác.

    --- oOo ---

    45.-"Việc hung dữ hãy nên xa lánh - Theo gương hiền trau sửa làm người - Sau tà tinh ăn sống nuốt tươi - Mà bá tánh chẳng lo cải thiện".

    Luận giải(dòng 23 tới 26, trang 58)
    Đừng làm điều hung ác, nên noi theo gương các bực Thánh Hiền mà sửa tánh răn lòng để trở thành người xứng đáng. Sau này dân chúng sẽ vô cùng đau khổ, bị giết hại bởi một loại người mang trái tim độc ác của loài quỉ dữ; chỉ những ai tu hành hiền đức mới hy vọng tránh khỏi tai nạn vô cùng to lớn này để sống còn.

    Nghĩa chữ khó:

    Gương hiềngương hay tốt của các bực Thánh hiền. 
    Cải thiệnsửa đổi cho tốt hơn.
    Hiềnngười hiền lành, ngay thật, hay tha thứ và thương giúp đỡ người, thương sanh vật.

    --- oOo ---

    46.-"Miệng dương thế hay bày nói huyễn - Sách THÁNH HIỀN ghét kẻ nhiều lời - Khuyên chúng-sanh niệm PHẬT coi đời - Cõi Hạ-Giái rồng mây chơi giỡn".

    Luận giải(dòng 27 tới 30, trang 58)

    Người đời vì tánh hiếu kỳ thường hay truyền miệng với nhau những mẩu chuyện tưởng tượng, khó tin, sách Thánh Hiền đâu có khen kẻ nhiều lời đó. Vì vậy, Ngài khuyên dân niệm Phật để tỉnh tâm, ở ăn ngay thật, suy nghĩ kỹ và lựa lời trước khi nói; cố gắng làm hiền, tránh xa việc dữ, khép mình vào đường tu Phật thì cõi trần thế này sẽ được hài hòa, an vui hạnh phúc.

    Nghĩa chữ khó:

    Huyễnchuyện viễn vông không có thật, khó tin. 
    Hạ giáicõi trần, nơi người đời sống.
    Rồng mây chơi giỡnsự hài hòa, vui vẻ, theo niềm tin dân gian, rồng mây gặp nhau sẽ đem mưa móc cho đời.

    Phụ giải:

    Hiếu kỳưa thích việc lạ, tọc mạch tò mò.
    Hài hòasự kết hợp tốt đẹp giữa các thành phần.
    Mưa mócmưa và sương. Nghĩa bóng: được ơn trên ban ân phước. 

    --- oOo ---

    47.-"Ở chòm-xóm đừng cho nhơ-bợn - Ráng giữ gìn phong-hóa nước nhà - Câu tam-tùng bọn gái nước ta - Chữ hiếu-nghĩa trẻ trai cho vẹn - Ghét những kẻ có ăn bỏn-xẻn - Thương những người đói rách lương hiền".

    Luận giải(dòng 31 tới 36, trang 58)

    Ở với xóm làng đừng có bụng tham xin món này vật nọ; rán giữ gìn những thói quen, lệ luật tốt của nước nhà. Người phụ nữ Việt Nam khi còn ở nhà phải phụng thờ Cha Mẹ, lúc có chồng thì hết dạ lo cho chồng con, lo cho Cha Mẹ chồng, chẳng may chồng chết, phải lo đạo hiếu thay chồng và dạy dỗ các con. Phận làm trai, ngoài đạo hiếu còn trách nhiệm gìn giữ Tổ quốc quê hương, ở ăn ngay thật, mở rộng lòng thương giúp đỡ và sẵn sàng binh vực người yếu thế, người nghèo đói, người thiếu may mắn. Ở đời không ai ưa hạng người tánh ý hẹp hòi, có của tiền dư mà keo kiệt, ai sống chết mặc tình.

    Nghĩa chữ khó:

    Nhơ bợnxin xỏ, hay nhờ vả; tham và hay cắp vặt.
    Phong hóathói quen tốt, hay, trong đời sống lâu ngày thành nề nếp của đất nước, của xóm làng.
    Tam tùngtheo đạo Khổng - vẫn còn giá trị đến nay - người đàn bà có ba điều phải giữ:
    1.- Ở nhànghe lời chỉ dạy của cha (tại gia tùng phụ)
    2.- Có chồngnghe theo chồng (xuất giá tùng phu)
    3.- Chồng chếtsống với con (phu tử tùng tử)
    Hiếu nghĩahiếu thảo và đạo nghĩa.
    Bỏn xẻnkeo kiệt, hà tiện quá mức, xấu về tiền bạc.
    Trách nhiệmđiều phải làm, phải nhận lấy về mình.

    Phụ giải:

    Hiếu thảochăm sóc, dưỡng nuôi, kính trọng, không làm điều gì để Ông Bà Cha Mẹ buồn.
    Đạo nghĩa: điều hợp với lẽ phải và đạo lý.

    --- oOo ---

    48.-"Muốn tu-hành thì phải cần-chuyên - Tưởng nhớ PHẬT chớ nên sái buổi - Kẻ phú- quí đừng vong cơm nguội - Sau đói lòng chẳng có mà dùng".

    Luận giải(dòng 1 tới 4, trang 59)

    Muốn tu trước hết phải thành ý và nghiêm chỉnh hành đạo, siêng năng, giữ đúng giờ niệm tưởng Phật, lòng lúc nào cũng ghi nhớ lời Phật dạy. Về đời sống, cần phải tiết kiệm, đừng bỏ cơm dư kẻo ngày sau đói lòng e không có cơm nguội mà ăn.

    Nghĩa chữ khó:

    Cần chuyên: chăm chú vào việc làm, không xao lãng. 
    VongquênNghĩa ở đây là đổ bỏ cơm dư.
    Phú quíxin xem số 33.

    Phụ giải:

    Tiết kiệmăn xài dè dặt, biết dành để, không xài bừa bãi.

    --- oOo ---

    49.-"Ta yêu đời than-thở chẳng cùng - Mà bá tánh chẳng theo học hỏi - A-DI-ĐÀ nhìn xem khắp cõi - Đặng trông chờ mong-mỏi chúng- sanh".

    Luận giải(dòng 5 tới 8, trang 59)

    Ngài thương dân nên không ngớt lời khuyên bảo, nhưng chẳng mấy ai chịu nghe mà học hỏi điều Phật dạy. Đức Phật A Di Đà dùng huệ nhãn nhìn khắp nơi mỏi lòng mong chúng sanh sớm thức tỉnh lo tu hành.

    Nghĩa chữ khó:

    Chúng sanhnhững loài có sanh có chết rồi lại sanh. Chỉ chung con người và sanh vật có sự sống. 

    Phụ giải:

    Huệ nhãnmắt huệ, sự thấy bằng trí huệ.
    Tỉnh thức - Thức tỉnhgợi ra, làm thức dậy cái tư tưởng hay tình cảm tiềm tàng trong lòng. Theo nhà Phật làGiác ngộ. Nghĩa thông thường là thức dây, tỉnh dậy sau cơn mê, thấy biết mình sai lầm mà cố gắng sửa đổi.
    Tiềm tàngở tình trạng còn ẩn kín, chưa bộc lộ ra. 

    --- oOo ---

    50.-"Hiện hào-quang ngũ sắc hiền lành - Đặng tìm kiếm những người hiền-đức - Kẻ tâm trí mau mau tỉnh thức - Kiếm Đạo mầu đặng có hưởng nhờ".

    Luận giải(dòng 9 tới 12, trang 59)

    Đức Phật A Di Đà chiếu hào quang năm sắc soi khắp bốn phương tìm người ngay thật, hiền lành, dày công tu niệm độ về cõi an vui của Ngài. Con người sáng suốt nhứt trong muôn loài vạn vật, bởi con người có trí huệ, nên dùng trí huệ suy nghĩ, sớm thức tỉnh tìm chánh Đạo tu hành để được hưởng nhờ ngày sau.

    Nghĩa chữ khó:

    Hào quangánh sáng tỏa ra bốn bên. Ánh sáng trí huệ của các bực tu đắc đạo.
    Ngũ sắcnăm màu. 
    Hiền đứcxin xem số 42.
    Đạo mầuđạo lý cao sâu, hay quí, khó đủ lời giải thích.

    --- oOo ---
    Lần sửa cuối bởi baoquang, ngày 04-19-2012 lúc 12:51 AM.
  2. #2
    baoquang Đang Ngoại tuyếnMember
    Ngày tham gia
    Feb 2012
    Bài viết
    92
    51.-"Chốn hồng-trần nhiều cảnh nhuốc nhơ - Rán hiểu rõ huyền-cơ mà tránh - Chốn tửu điếm ta nên xa lánh - Tứ đổ-tường đừng có nhiễm vào - Người lánh * (tránh) xa mới gọi trí cao - Sa bốn-vách mang điều nhơ-nhuốc".

    Luận giải(dòng 13 tới 18, trang 59)

    Chốn dương trần có quá nhiều tồi tệ, người đời nên suy nghĩ nhìn xa, tìm hiểu luật Trời mà gìn giữ thân mình, người cao trí tránh xa bốn điều hư xấu: uống rượu say sưa, ham mê gái đẹp, đánh bạc và ghiền thuốc phiện. Ai sa vào là chuốc lấy nhuốc nhơ.
    - * Ấn bản 1998 in tránh xa.

    Nghĩa chữ khó:

    Nhơ nhuốc - nhuốc nhơdơ bẩn, tồi tệ, xấu xa. 
    Huyền cơmáy trời, sự sắp đặt của Trời Phật.
    Tửu điếmquán bán rượu.
    Nhiễmbị các thứ hư xấu dính vô làm cho tâm hồn cũng như thân xác không còn trong sạch.
    Tứ đổ tườngbốn điều hư xấu, có hại đã kể trên.

    --- oOo ---

    52.-"Muốn tu tỉnh nay đà gặp cuộc - ĐỨC DI- ĐÀ truyền mở Đạo lành - Bởi vì NGÀI thương xót chúng-sanh - Ra sắc lịnh bảo TA truyền dạy - Nên khổ-lao KHÙNG không có nại - Miễn cho đời hiểu đặng Đạo-mầu".

    Luận giải(dòng 19 tới 24, trang 59)

    Nay gặp dịp may, Đức Phật A Di Đà thương chúng sanh nên truyền mở nền Đạo chánh, Ngài được lịnh xuống trần giảng dạy cho dân, vì vậy, dầu khó khăn khổ cực Ngài vẫn vui lòng, miễn sao người đời sớm hiểu biết mà tu học theo Phật Đạo.

    Nghĩa chữ khó:

    Không nạikhông ngại cực, khổ không buồn lòng.
    Sắc lịnhlịnh của một vị cao cấp; lịnh của Phật.
    Khổ lao-lao khổ: xin xem số 22- Nại-nệ: xem số 31.

    --- oOo ---

    53.-"Ai muốn tầm Đạo cả cao sâu - Thì hãy dẹp tánh tình ích-kỷ - Mau trở lại đừng theo tà-quỷ - Tham, Sân, Si chớ để trong lòng".

    Luận giải(dòng 25 tới 28, trang 59)

    Tu theo Đạo chánh của Phật thì phải dẹp bỏ tánh tình ích kỷ, vì ở đời không ai có thể sống lẻ loi, hãy mở rộng lòng thương yêu, tha thứ, cùng nương nhau, dìu dắt nhau trong cuộc sống, giúp nhau sửa đổi thói hư tật xấu. Đời vốn vô thường, thân ta cũng vô thường, nên cố gắng giữ lòng trong sáng để tiêu diệt ba độc Tham - Sân - Si. Tâm lặng yên thì tạp niệm không sanh, bụi trần không gợn, lòng như mặt nước hồ thu dầu có quỉ tà cũng không dẫn dắt được.

    Nghĩa chữ khó:
    Ích kỷchỉ biết lo riêng mình, ai đau khổ cũng mặc kệ.
    Tham: ham tiền của không kể phải trái hay bị chê cười.
    Sângiận dữ khi bị ai làm trái ý hay nói chạm tới mình.
    Sitâm mê, không thấy lẽ phải mới làm điều hư xấu.

    Phụ giải:

    Vô thườngđời sống không bền vững, có đó mất đó.

    --- oOo ---

    54.-"Phải giữ lòng cho được sạch-trong - Mới thoát khỏi trong vòng bịnh khổ - Lớp đau chết kể thôi vô số - Thêm tà-ma yêu-quái chật đường".

    Luận giải(dòng 29 tới 32, trang 59)

    Giữ tâm hồn luôn trong sáng, sống có chừng mực, ngay thẳng hiền hòa; không gian tham, không hung dữ, siêng năng luyện rèn thân thể thì chắc chắn tránh được buồn phiền và khỏi bịnh khổ vì sống thiếu lành mạnh. Còn bọn ngưòi lòng dạ độc ác, sau này thây nằm chật đường không sao đếm hết.

    --- oOo ---

    55.-"Chốn hồng-trần nhiều nỗi thảm-thương - Làm sao cứu những người hung-ác - Khắp thế- giới cửa nhà tan-nát - Cùng xóm làng thưa-thớt quạnh-hiu".

    Luận giải(dòng 33 tới 36, trang 59)

    Máy Trời đã sắp đặt một cuộc đổi đời, nên chúng sanh phải trải qua nhiều khổ đau tử biệt, sanh ly. Phật từ bi cũng không cứu đuợc những kẻ lòng dạ ác gian mà chẳng chịu ăn năn cải sửa. Khắp thế giới sẽ cửa nhà tan nát, đầu xóm cuối làng vắng vẻ buồn hiu, bởi bực tu hiền quá ít nên người sống còn chẳng được bao nhiêu.

    Nghĩa chữ khó:

    Quạnh hiuvắng vẻ, buồn tanh.

    --- oOo ---

    56.-"Bấy lâu nay nuôi duỡng chắc-chiu - Nay tận-diệt lập đời trở lại - Khắp lê-thứ biến vi thương hải - Dùng phép-mầu lập lại THƯỢNG-NGUƠN".

    Luận giải(dòng 1 tới 4, trang 60)

    Chúng sanh lâu nay được Phật Trời chăm sóc dưỡng nuôi, nhưng ngày càng có nhiều kẻ hư xấu, hung ác mà không chịu ăn năn cải sửa nên phải bị tiêu diệt; khắp thế gian rồi sẽ tan thành biển, chỉ những ai hiền lành, lòng dạ ngay thật mới sống còn, và đời Thượng nguơn được lập lại theo sự xếp đặt của Trời Phật.

    Nghĩa chữ khó:

    Chắc chiu - Chắt chiunuông chiều, chăm sóc kỹ. 
    Lê thứnghĩa ở đây là con người khắp mọi nơi.
    Biến vi thương hảibiến thành biển xanh, do câu: "Tang điền biến vi thương hải, thương hải biến vi tang điền”(Ruộng dâu biến thành biển xanh, biển xanh hóa thành ruộng dâu).Bà Ma Cô trong truyện Thần Tiên, thấy ba lần ruộng dâu hóa thành biển xanh và ngược lại. Nghĩa bóng chỉ sự thay đổi lớn lao.
    Thượng nguơnxin xem số 33.

    --- oOo ---

    57.-"Việc Thiên-Cơ KHÙNG tỏ hết trơn- Cho trần-hạ tường nơi lao-lý - LÃO nào có bày điều ma-mị - Mà gạt lường bổn-đạo chúng-sanh".

    Luận giải(dòng 5 tới 8, trang 60)

    Về việc sắp đặt của Trời Phật, điều nào nói được Ngài đã nói, mong sao dân chúng hiểu rằng kiếp sống của thế nhân ngày nay không khác nào ở chốn ngục tù, đây là những lời khuyên thành thật chớ không phải Ngài bày điều nói gạt người đời.

    Nghĩa chữ khó:

    Lao lýxin xem số 19Bổn đạo: xin xem số 34.
    Ma mịbày chuyện gạt người.

    --- oOo ---

    58.-"Đức MINH VƯƠNG ngự chốn Nam-thành - Đặng phân xử những người bội nghĩa - Trung với hiếu ta nên trau-trỉa - Hiền với lương bổn đạo rèn lòng".

    Luận giải(dòng 9 tới 12, trang 60)

    Sau này Đức Minh Vương ngự ở thành Nam phân xử những kẻ quên ơn bỏ nghĩa, nên Ngài khuyên thế nhân phải giữ tròn Trung với hiếu, ăn ở hiền lành, lòng dạ ngay thật; mong sao anh chị em trong Đạo rán tu sửa theo lời khuyên này.

    Nghĩa chữ khó:

    Minh Vươngxin xem số 29. – Trungxin xem số 6.
    Bộinghĩa là quên bỏ ơn nghĩa. 
    Trau trỉa-trau triatrau giồi cho tốt hơn, cho hay hơn. 
    Hiền lương-Lương hiềnxin xem số 8.

    --- oOo ---

    59.-"Thường nguyện-cầu siêu-độ TỔ-TÔNG - Với bá-tánh vạn dân vô sự - Đời NGUƠN-HẠ nhiều người hung-dữ - Nên xảy ra lắm sự tai ương - Đức DI ĐÀ xem thấy xót-thương - Sai chư PHẬT xuống miền dương-thế".

    Luận giải(dòng 13 tới 18, trang 60)

    Người tu lúc nào cũng thành lòng cầu nguyện Tổ tiên, Ông Bà, Cha Mẹ (đã chết) linh hồn sớm được Phật độ về cõi yên vui; cũng không quên nguyện cầu tất cả chúng sanh biết thương yêu và tha thứ nhau để được sống bình an thong thả. Đời Hạ Nguơn lắm kẻ hung ác gây quá nhiều tai họa cho dân, Đức Phật Di Đà xem thấy xót thương, mới cho chư Phật xuống thế gian dạy Đạo và cứu vớt những bực tu hành ngay thật.

    Nghĩa chữ khó:

    Siêu độđược chư Phật cứu về cõi an vui. 
    Tổ Tông-Tổ tiênông bà một dòng họ từ các đời trước. 
    Vạn dân- Vạn: mười ngàn. Ở đây chỉ chung người đời. 
    Vô sự - Bình ankhông có chuyện gì phải lo buồn. 
    Nguơn hạ hay Hạ nguơn: xin xem số 33.
    Tai ương-Tai họacó hại đến sanh mạng, tài sản.

    --- oOo ---

    60.-"Tu kíp kíp nếu không quá trễ - Chừng đối đầu khó kiếm ĐIÊN KHÙNG - Cứu lương hiền chẳng cứu người hung - Kẻ gian-ác đến sau tiêu-diệt".

    Luận giải(dòng 19 tới 22, trang 60)

    Hãy sớm lo tu kẻo không còn kịp nữa, nếu chần chờ chừng gặp nguy hiểm khó kiếm NgàiNgài chỉ cứu những ai ngay thật hiền lành chớ không cứu được kẻ hung dữ mà chẳng chịu ăn năn cải hối. Bọn gian ác ngày sau sẽ không một ai sống sót.

    Nghĩa chữ khó:

    Kíp kípgấp gấp, mau mau.
    Đối đầunghĩa ở đây là gặp phải việc khổ, việc khó, việc nguy hiểm mà mình không muốn. 
    Gian ácbất chấp lẽ phải, hung dữ, độc hiểm, gian dối. 

    --- oOo ---

    61.-"Nay trở lại như đời TRỤ-KIỆT - Hãy tu chơn (nhơn) chớ có tranh-giành - Tuy nghèo hèn mà chí cao-thanh - Được hồi-phục nhờ ơn chư PHẬT".

    Luận giải: (dòng 23 tới 26, trang 60)

    Thời nay lộn xộn, dân chúng đau khổ, chết chóc không khác gì đời hai vua Trụ và Kiệt ngày xưa. Để được sống còn, Ngài khuyên thế nhân rán sửa tánh, răn lòng, ở ăn ngay thật, yên phận giữ tròn đạo làm người, không nên tranh danh giành lợi, dầu nghèo nhưng tâm ý lúc nào cũng phải sáng trong cao thượng và nghiêm chỉnh khép mình theo lời Phật dạy, cuộc sống đó ngày sau chắc chắn sẽ an lành, hạnh phúc. - * Ấn bản 1998 in tu nhơn.

    Nghĩa chữ khó:

    Trụ-Kiệt2 vua ác của Tàu ngày xưa - xin xem số 29.
    Tu nhơntrau giồi tâm ý, sửa mình giữ tròn đạo lý. 
    Chíý, lòng quyết định làm một việc gì không bỏ cuộc.
    Cao thanh -Thanh cao - Thanhthanh sạch. Caocao. Người không chịu uốn mình làm điều gì trái với lương tâm ,trái với đạo lý. Người có một nhân cách cao quí. 
    Hồi phụcđược lại cái đã mất, ở đây có nghĩa được ơn ban thưởng của Phật.

    --- oOo ---



    62.-"Hãy thương-xót những người tàn-tật - Thấy nghèo hèn chớ khá khinh cười - Trên NĂM-NON rồng phụng tốt-tươi - Miền BẢY- NÚI mà sau báu-quí ".

    Luận giải(dòng 27 tới 30, trang 60)

    Hãy mở rộng lòng thương giúp đỡ những người thiếu may mắn, tàn tật, gặp tai nạn. Mình có phước được hưởng đời sống đầy đủ thì đừng khinh khi người nghèo khó. Ngài cho biết trên Năm Non miền Bảy Núi có rồng có phụng, cảnh vật tốt tươi, đặc biệt nơi đó còn chứa nhiều quí báu mà bây giờ chưa thể nói ra.

    Nghĩa chữ khó:

    Tàn tật - Tật nguyềnmột hay nhiều bộ phận trong thân thể hư, mất hoặc không dùng được.
    Năm Non: năm chỏm cao của Núi Cấm, còn gọi là vồ:
    1.- Vồ Bò Hongở hướng Tây, cao 716 mét. (nơi đây ít người lui tới nên giống bò hong - giống như con muổi, nhưng nhỏ hơn - sanh nở nhiều.) 
    2.- Vồ Đầucao 584 mét, ở hướng Tây Bắc (phải chăng là cái vồ đầu tiên mà người ta gặp được, khi lên núi do ngã chợ Thum Chưn ?) 
    3.- Vồ Bàcao 579 mét, hướng Nam. (có điện thờ bà Chúa Xứ). 
    4.- Vồ Ông Bướmcao 480 mét, hướng Bắc (ngày xưa có hai nhân vật: Ông Bướm và Ông Vôi ở.) 
    5.- Vồ Thiên Tuếcao 514 mét, ở hướng Đông (có nhiều cây thiên tuế)
    Bảy Núi hay Thất sơn - xin xem số 9.
    63.-"Mặc trai gái trẻ già có nghĩ - Thì khoan cười tôi rất cám ơn - KHÙNG ra đời truyền dạy thiệt hơn - Chư bổn-đạo chớ nên khinh rẻ".

    Luận giải(dòng 31 tới 34, trang 60)

    Thế nhân nghĩ sao cũng được, nhưng xin đừng vội cười, Ngài rất cám ơn. Ngài xuống thế là để rao truyền, khuyên dạy người đời tu hành theo giáo lý của Đức Thích Ca, mong chư vị trong gia đình nhà Phật chớ khá khinh khi.

    Phụ giải:

    Rao truyềndùng mọi cách cốt sao được nhiều người hay biết và làm theo điều mình muốn. 

    --- oOo ---

    64.-"Nay KHÙNG đã hết già hoá trẻ - Nên giữa đồng bỗng lại có sông - Ở TÂY PHƯƠNG chư PHẬT ngóng trông - Chờ bá-tánh rủ nhau niệm PHẬT".

    Luận giải(dòng 35-36, trg 60 và dòng 1-2, trg 61)

    Ngái là bồ Tát xuống trần mượn thân xác một thanh niên, mang nghĩa lý cao quí của Phật giáo chỉ dạy người đời tu tâm dưỡng tánh, thấy rõ điều hoạ phước, đúng sai. Việc làm cao đẹp này như luồng gió mát thổi tan hơi nóng bức, như một dòng sông đầy nước trong, ngọt ngào chảy vào cánh đồng khô khan nứt nẻ! Chư Phật, chư Bồ Tát bao giờ cũng mong người đời sửa tánh răn lòng, làm lành lánh dữ, sớm tối lo tu.

    Phụ giải:
    Bồ TátBodhisattva (scr) chữ Phạn, chỉ bực tu hành đắc quả Phật còn vào đời cứu độ chúng sanh. 
    Đắc quảcông tu đã thành, được kết quả, đắc đạo.
    Đạo đức - Đạo là lẽ phải, đường ngay chánh, phép tắc làm khuôn thước cho người đời noi theo. Nền tảng của tôn giáo, dạy con người trau sửa tâm tánh để trở nên hiền lành ngay thật. Đức: làm hết những điều lành; lòng dạ ưa thích làm lành, thương người, cứu vật. 

    --- oOo ---

    65.-"Làm nhơn-ái ắt tiêu bệnh-tật - Vậy hãy mau tầm Đạo THÍCH-CA - PHẬT tại tâm chớ có đâu xa - Mà tìm kiếm ở trong (trên) NON-NÚI ". - * Ấn bản 1998 in trên.

    Luận giải(dòng 3 tới 6, trang 61)

    Làm việc lành sẽ thấy lòng dạ nhẹ nhàng, tinh thần khoan khoái, nhờ đó ít sanh bịnh tật. Gíáo lý nhà Phật dạy lắng lòng không cho tạp niệm phát sanh. Giữ tâm ý trong sáng, yên lặng thì hiển lộ trí huệ. Khi trí huệ thăng hoa là Giác ngộ. Giác ngộ tức thấy tánh Phật của mình, tại lòng mình, khỏi nhọc công kiếm tìm Phật trên Non trên Núi.

    Nghĩa chữ khó:

    Nhơn áilòng hiền lành, thương người.

    Phụ giải:

    Tạp niệm: suy tưởng lộn xộn; ý nghĩ xấu
    Hiển lộhiện rõ ra.
    Thăng hoaphát triển nhanhlàm cho tốt đẹp hơn.
    Phát triểnmở rộng thêm, lớn mạnh thêm.

    --- oOo ---

    66.-"Chúng đục-đẻo những cây với củi - Đắp xi-măng sơn phết đặt tên - Ngục A-TỲ dựa kế một bên - Chờ những kẻ tu hành giả-dối ".

    Luận giải(dòng 7 tới 10, trang 61)

    Phật trong lòng mình chớ không phải ở những hình cây tượng đất hay xi măng sơn phết đặt tên, cửa ngục A Tỳ đang mở rộng chờ đón những người tu giả dối.

    Nghĩa chữ khó:

    Ngục A TỳAvichi (scr) dịch Vô gián tức không ngừng nghỉ, kẻ có tội bị hành hạ không lúc nào ngưng. 

    --- oOo ---

    67.-"Khuyên sư-vãi mau mau cải-hối - Làm vô-vi chánh Đạo mới mầu - Đạo THÍCH CA nhiều nẻo cao sâu - Hãy tìm kiếm cái không mới có".

    Luận giải(dòng 11 tới 14, trang 61)

    Ngài khuyên các vị sư vị ni nào trót lỡ lầm làm sai trái nên mau ăn năn cải sửa, trở về Đạo chánh của Đức Thích Ca. Đạo Phật dạy sửa tánh, rèn lòng, trau giồi trí huệ chớ không dạy tin tưởng các hình thức bên ngoài. Người tu nên tìm học hiểu lý lẽ cao sâu trong Phật lý. Ai cũng có tánh Phật, mình có mà bỏ quên vì mê tối nên không biết đến, hoặc cho là không có. Tìm cái không đó mới thấy cái có Phật tánh của mình.

    Nghĩa chữ khó:

    Cải hốihối hận, biết mình đã làm sai nên quyết lòng sửa đổi cho đúng.
    Vô vikhông cố ý làm ra, xuôi theo tự nhiên. Tu là dọn sửa lòng chứ chẳng phải tụng kinh mà không hiểu ý nghĩa hoặc tin tưởng các hình thức bên ngoài.

    --- oOo ---

    68.-"Ngôi Tam-Bảo hãy thờ trần-đỏ - Tạo làm chi những cốt với hình - KHÙNG nói cho già trẻ làm tin - Theo Lục-Tổ chớ theo Thần-Tú".

    Luận giải(dòng 15 tói 18, trang 61)

    Thờ ba ngôi báu nên tượng trưng bằng một bức Trần Đỏ, vì tu là dọn sửa tánh, sửa lòng, tìm học hiểu ý nghĩa trong những lời của Phật dạy, phải bền lòng rèn luyện tâm ý để phát triển tinh thần và trí huệ mới đi đến giác ngộ chớ không phải lạy quì cầu xin ân phước trước những cốt với hình. Ngài chỉ cho người đời biết là nên học theo cách tu của Đức Lục Tổ chớ đừng bắt chước Đại sư Thần Tú.

    Nghĩa chữ khó:

    Tam bảoba ngôi báu: Phật - Pháp - Tăng.
    PhậtBouddha, tiếng Phạn (scr) là bực sáng suốt. 
    Pháp: đạo lý, lời dạy của Phật.
    Tăngnam tu sĩ rời gia đình, vào chùa học đạo lý, thọ Giới cụ túc (giữ đầy đủ giới luật) rồi mang lời Phật dạy rao truyền cho nhiều người hiểu biết.
    Lục Tổ Huệ Năng  Đại sư Thần Tú cùng theo học Ngũ tổ Hoàng Nhẫn. Đại sư Thần Tú đặt nặng về hình thức, khác hơn Lục tổLục tổ dạy: "Phật ở lòng mình, tìm kiếm ở núi non vô ích, nên trau sửa và giữ Tâm luôn ngay thẳng, trong sạch, không chấp mắc, khi biết rõ Tâm mình, thấy được Tánh mình là thành Đạo"… 

    Phụ giải:


    Tượng trưngmượn một vật có hình thể thay thế vật không hình thể. Ví dụ, lá quốc kỳ là tượng trưng của Tổ quốc.
    Phát triểnmở rộng thêm ra. Xin xem số 65.
    Tinh thầnchỉ chung những hoạt động thuộc nội tâm của con người, như ý nghĩ, tình cảm, sự sáng suốt, ý chí ... Ý nghĩa đẹp của việc làm. 

    --- oOo ---

    69.-"Khuyên bổn-đạo chớ nên mê ngủ - Thức dậy tìm Đạo chánh của KHÙNG - Đặng sau xem liệt quốc tranh hùng - Được sanh sống nhờ ơn CHÍN-BỆ - Hóa phép lạ biết bao mà kể - Chín từng mây nhạc trổi tiêu thiều - Kẻ tà-gian sau bị lửa thiêu - Người tu niệm sống đời thượng-cổ".

    Luận giải(dòng 19 tới 26, trang 61)

    Ngài khuyên những ai trong gia đình nhà Phật nên sáng suốt tìm hiểu về nền Đạo chánh của Ngài, bởi Ngàimang giáo lý cao đẹp của Đức Thích Ca xuống trần chỉ dạy người đời sửa tánh, răn lòng đi đường chánh vào cửa Phật, hầu giảm bớt được phần nào đau khổ trong khi thế gian đã quá nhiều đau khổ. Nếu ai cũng biết giữ gìn giới cấm của nhà Phật thì thế gian này đâu còn cảnh tranh giành, chém giết, đời sẽ rộn ràng tiếng nhạc chào mừng cảnh thanh bình hạnh phúc. Ngày sau, kẻ gian ác sẽ bị thiêu thân trong khói lửa, chỉ người tu hiền ngay thật mới được sống còn.

    Nghĩa chữ khó:

    Liệt quốccác nước giàu mạnh.
    Tranh hùngđọ sức để giành thế mạnh, làm đàn anh.
    Chín bệchín bực thang lên chỗ vua ngồi. Nghĩa bóng chỉ vị có quyền lực cao nhứt. 
    Tiêu thiềuchỉ các loại nhạc trổi lên cùng một lúc. 
    Thượng cổthời xa xưa, trước thời trung cổ, đời sống không hận thù, con người đạo đức, thế giới trong sạch. 

    --- oOo ---

    70.-"KHÙNG vưng lịnh TÂY-PHƯƠNG PHẬT TỔ - Nên (Nền) giáo-truyền khắp cả NAM-KỲ - Hội LONG-HOA chọn kẻ tu-mi - Người hiền đức đặng phò chơn CHÚA".

    Luận giải(dòng 27 tới 30, trang 61)

    Ngài vâng lịnh Đức Phật Tổ phương Tây mang ý nghĩa cao đẹp của nền Đạo chánh đi truyền dạy khắp miền Nam, đồng thời tìm chọn người hiền tài, đức độ đề cử vào Hội Long Hoa để giúp vị lãnh đạo đất nước sau này. - * Ấn bản 1998 in Nền.

    Nghĩa chữ khó:

    Giáo truyềndạy dỗ cho nhiều người cùng hiểu biết.
    Nam Kỳthời Pháp cai trị, Việt Nam bị chia ba phần, hay ba kỳ: Bắc - Trung - Nam. Nam là Nam kỳ.

    --- oOo ---

    71.-"Khuyên những kẻ giàu sang có của - Hãy mở lòng thương-xót dân nghèo - Cảnh vinh- hoa lại quá cheo-leo - Nhà giàu có sau nhiều tai-ách - Hỡi bá-tánh rừng sâu có mạch - Tuy u-minh mà có đền vàng".

    Luận giải(dòng 31 tới 36, trang 61)

    Ngài khuyên những ai nhiều tiền của nên mở rộng lòng thương giúp đỡ kẻ nghèo khó. Giàu sang chức lớn quyền cao tuy sung sướng đó nhưng dễ mất vì rất mỏng manh, khó giữ được lâu dài; nhứt là kẻ giàu mà không biết thương người, sau này sẽ bị nhiều tai ách. Ngài nói cho dân chúng biết, trong rừng sâu bao giờ cũng có dòng nước chảy ngầm, ngày nay tuy tối tăm mù mịt nhưng sau này sẽ có gác ngọc đền vàng. Nghĩa bóng: phải chăng ý Ngàimuốn nói người nghèo khổ mà biết giữ tâm hồn trong sáng, bền chí tu hành, cuộc sống đó mới cao quí, chắc chắn sẽ đuợc người đời kính trọng.

    Nghĩa chữ khó:

    Vinh hoagiàu sang, có chức quyền, có cuộc sống, an vui, an lành, hạnh phúc mà nhiều người ham muốn.
    Cheo leocao mà không vững, dễ bị rơi ngã, nguy hiểm. 
    Mạchở đây chỉ đường nước chảy ngầm dưới đất.
    Tai áchrủi ro lớn có hại về của cải, hay sanh mạng. 
    U minhtối tăm, mù mịt.
    Đền vàngnhà to, rộng, cao lớn được sơn phết hoặc mạ vàng của các bực vua chúa.

    --- oOo ---

    72.-"Lịnh QUAN-ÂM dạy biểu KHÙNG troàn - Cho bổn-đạo rõ nguồn chơn-lý - Lũ thầy-đám hay bày trò khỉ - Mượn kinh luân tụng mướn lấy tiền - Chốn DIÊM ĐÌNH ghi tội liên miên - Mà tăng chúng nào đâu có rõ".

    Luận giải(dòng 1 tới 6, trang 62) 

    Ngài vâng lịnh Đức Phật Quan Âm giải thích cho nam nữ thiện tín trong gia đình nhà Phật hiểu biết nguồn gốc và sự thật về hành động của các người được gọi là thầy đám, thầy cúng: họ là những người tuy mặc áo nhà tu, cũng cạo tóc nhưng sống với nghề tụng kinh mướn cho các đám cúng, cầu siêu. Họ khoe khoang khoác lác gạt đời rằng nhờ họ tụng kinh nên hồn người chết mới hết tội và được về cõi Phật. Họ tụng kinh nhiều hay ít, lâu hay mau là tùy theo số tiền chủ nhà bỏ ra trả công cho họ. Tội của bọn dối đời này quá nhiều, được ghi chép đầy đủ ở Diêm đình mà đa số các người tu hành không hay biết.

    Nghĩa chữ khó:

    Troànlà truyền, tiếng dân gian miền Nam, có nghĩa làm cho nhiều người hay biết.
    Thầy đám-Thầy cúngmặc áo nhà tu nhưng không hẳn tu ở chùa, họ chuyên nhận mối tụng kinh mướn cho các đám cúng, các tuần chay của những người không hiểu biết gì về Đạo Phật. Chính bọn thầy đám này làm cho đạo Phật bị người đời hiểu lầm không ít.
    Chơn lýlẽ thiệt, lẽ đúng đắn, lẽ chính của sự việc.
    Mượn Kinh luân tụng mướnmượn kinh kệ luân phiên nhau tụng mướn (tụng kinh lấy tiền do người mướn).
    Diêm Đìnhnơi vua cõi Âm (cõi chết) xét xử các hồn. 
    Tăng chúng: chỉ chung những vị xuất gia tu Phật. 

    Phụ giải:

    Khoác lácdóc, láo; bịa chuyện ra nói để khoe khoang.
    Nguồnnguồn gốc, nơi phát khởi con sông, ngọn suối. Ví dụ: "Sông Cửu Long bắt nguồn từ Tây Tạng".

    --- oOo ---

    73.-"Theo THẦN-TÚ tạo nhiều chuông mõ - Từ xưa nay có mấy ai thành ? PHẬT từ-bi độ tử độ sanh - Là độ kẻ hiền-lương nhơn-ái - Xá với phướn là trò kỳ quái - Làm trai đàn che miệng thế-gian - Kẻ vinh-hoa phú-quí giàu sang - Mướn tăng chúng đặng làm chữ hiếu - Thương bá-tánh vì không rõ hiểu - Tưởng vậy là nhơn nghĩa vẹn tròn".

    Luận giải(dòng 7 tới 16, trang 62)

    Tu theo môn phái của Đại sư Thần Tú có nhiều chuông mõ, thờ cốt với hình. Tu mà tin tưởng vào hình tượng từ xưa đến nay có mấy ai thành Đạo ? Phật thương cứu độ người sống lẫn người chết nếu thực hành đúng điều Phật dạy: ăn ở hiếu thảo, hiền lành, lòng dạ ngay thật, tha thứ cho nhau, thương và sẵn sàng cứu giúp kẻ nghèo khó, trọng mạng sống con người cũng như của sanh vật. Còn bày việc đốt xe hơi nhà lầu bằng giấy, đốt hình tôi tớ, áo quần, tiền giả cho nguời chết tiêu xài, đó là trò dối đời, làm hao tốn tiền chớ không ích lợi gì. Chỉ những người quyền cao chức lớn, nhiều tiền mà không hiểu biết gì về Đạo Phật mới làm đám cúng to, giết sanh vật đãi đằng nhiều ngày, nhiều tháng, mời đông thầy cúng tới tụng kinh, vừa khoe lòng hiếu vừa khoe của tiền, trong khi Cha Mẹ còn sống thì bỏ bê không chăm sóc, chẳng ngó ngàng gì tới ! Thương người đời không hiểu, tưởng làm như vậy là báo hiếu cho Ông Bà, Cha Mẹ!

    Nghĩa chữ khó:

    Từ - Bixin xem số 8.
    Nhơn áilòng thương người. Xin xem số 65.
    ĐộPhật, Bồ tát dìu dắt, đưa chúng sanh từ bến mê đến bờ giác, tức đưa từ chỗ khổ tới nơi an vui, vì đời là biển khổ, đạo Phật như chiếc thuyền, môt phương tiện độ (đưa) người tu hiền vượt qua biển khổ đến bờ an vui.
    Xá Phướn  hạc bằng giấy, mang sớ về Tây phương ? Phướntràng phan, cờ lớn treo trước chùa.
    Trai đànnhiều“ thầy đám thầy cúng” tựu lại tụng kinh mà người không hiểu Đạo Phật cho đó là cách báo hiếu, và cầu xin tha tội cho hồn người chết.
    Nhơn nghĩalòng thương yêu, giúp đỡ người, thương sanh vật, xử sự đúng theo đạo lý. 

    --- oOo ---

    74.-"Thấy lạc lầm ĐÂY động lòng son - Khuyên bổn-đạo hãy nên tỉnh-ngộ - Ở dương thế tạo nhiều cảnh khổ - Xuống huỳnh-tuyền Địa Ngục khảo hình - Tuy lưới TRỜI thưa rộng thinh thinh - Chớ chẳng lọt những người hung-ác".

    Luận giải(dòng 17 tới 22, trang 62) 

    Thấy trong gia đình nhà Phật nhiều người còn lầm lạc vì không hiểu biết, Ngài động lòng thương mới cạn lời chỉ dẫn, mong sao bỏ mê tối sửa đổi điều sai trật. Những kẻ lúc sống làm xấu, ác, gây đau khổ cho đời, khi chết hồn xuống suối vàng phải chịu tra khảo, hành hình. Lưới Trời tuy rộng, tuy thưa nhưng không kẻ hung ác nào thoát lọt.

    Nghĩa chữ khó:

    Tỉnh ngộxin xem số 23.
    Huỳnh tuyềnsuối vàng; chỉ cõi chết.
    Địa ngụcnhà tù ở cõi chết.

    --- oOo ---

    75.-"Khi nhắm mắt hồn lìa khỏi xác - Qủi VÔ -THƯỜNG dắt xuống DIÊM-ĐÌNH - Sổ sách kia tội phước đinh-ninh - Phạt với thưởng hai đường tỏ rõ - Tìm CỰC-LẠC ĐÂY rành đường ngõ - Hãy mau mau tu tỉnh mới mầu".

    Luận giải(dòng 23 tới 28, trang 62)

    Khi tắt thở, hồn vừa rời khỏi xác liền bị Quỉ Vô Thường dắt xuống Diêm Đình chịu thưởng phạt tùy theo những việc đã làm phước hay tội, được ghi chép rõ ràng. Riêng những ai muốn tìm về nơi tột cùng an vui Ngài sẽ chỉ đường cho, tức bỏ mê tối, sửa tánh răn lòng khép mình tu học làm đúng lời Phật dạy.

    Nghĩa chữ khó:

    Quỉ Vô Thườngquỉ dắt hồn ngườiNhững kẻ suốt đời làm ác, trước lúc tắt hơi cảm thấy có quỉ đến bắt mình đi xuống âm phủ chịu sự phán xét và lãnh hình phạt. 
    Diêm đìnhxin xem số 72
    Đinh ninhnhắc đi nhắc lại cho người khác hiểu rõ, nhớ chắc. Tin chắc việc phải xảy ra; việc chắc chắn.
    Cực lạc: an vui tột cùng. Nước cực lạc là thế giới yên vui của Đức Phật A Di Đà.
    Tu tỉnhxin xem số 41.

    --- oOo ---


    76.-"Tận thế-gian còn có bao lâu - Mà chẳng chịu làm tròn nhân-đạo - Kẻ nghèo khó hụt tiền thiếu gạo - Mở lòng nhơn tiếp rước mới là - Làm hiền lành hơn tụng hơ-hà - Hãy tưởng PHẬT hay hơn ó-ré".

    Luận giải(dòng 29 tới 34, trang 62)

    Ngày thế gian tiêu diệt đã cận kề vậy mà thế nhân chưa tỉnh thức để lo tròn đạo làm người; hãy mở rộng lòng thương và vui vẻ tiếp giúp cơm tiền cho kẻ hoạn nạn, nghèo khổ. Biết tha thứ, thật lòng thương người, siêng tìm học kinh kệ, làm đúng lời Phật dạy hay hơn đọc tụng kinh hơ hà mà không hiểu nghĩa lý.

    Nghĩa chữ khó:

    Tận thế gianngày thế giới bị tiêu diệt.
    Nhơn đạođạo làm người.
    Lòng nhơnlòng biết tha thứ và thương yêu, giúp đỡ người, thương sanh vật.

    --- oOo ---

    77.-"Đã chánh Đạo thêm còn sức khoẻ - Đặng nuôi cha dưỡng mẹ cho tròn - Vẹn mười ơn mới đạo làm con - Lúc sanh sống chớ nên phụ bạc".

    Luận giải(dòng 35-36, trg 62, và dòng 1-2, trg 63)

    Biết tu đúng theo chánh Đạo thì tâm hồn được thanh thản nhẹ nhàng; biết giữ nếp sống có chừng mực thì thân xác không đau ốm, sức khoẻ được đầy đủ để trước hết làm tròn đạo Hiếu. Khi Cha Mẹ còn sống, phận làm con phải hết lòng chăm sóc, dưỡng nuôi, không làm điều gì sai trái để Cha Mẹ buồn lòng ... (Sách dạy làm người của Việt Nam viết: "Công Cha như núi Thái sơn - Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra". Công ơn của Cha Mẹ đối với con vô cùng to lớn, không sao nói hết được) ở đây Ngài chỉ kể sơ mười ơn mà phận làm con phải ghi nhớ, lo báo đáp.

    Nghĩa chữ khó:

    Mười ơn(1) Sanh đẻ chịu khổ - (2) Bồng ẵm giữ gìn (3) Uống đắng nhổ ngọt (4) Nhường chỗ khô nằm chỗ ướt - (5) Sanh được con mừng mà quên rầu - (6) Rửa ráy mọi điều dơ bẩn - (7) Bú mớm nuôi nấng - (8) Vì con nhiều khi Cha Mẹ phải làm điều chẳng lành - (9) Đi xa thì nhớ tưởng - (10) Mẹ thương con không có cái thương nào bằng. (Để hiểu PGHH: ÔÔ.Thanh Sĩ - Vương Kim).
    Phụ bạcquên ơn nghĩa, đối xử xấu với người ơn mình. 

    --- oOo ---

    78
    .-"Nếu làm đám được về CỰC-LẠC - Thì giàu-sang được trọn hai bề - Ỷ tước-quyền làm ác ê hề - Khi bỏ xác nhiều tiền lo-lót".

    Luận giải(dòng 3 tới 6, trang 63)

    Nếu nhờ mấy đám người tụng kinh mướn mà hồn người chết khỏi tội còn được về nơi tột cùng an vui thì những kẻ giàu tiền của, chức lớn quyền cao sẽ được lợi cả hai bề: lúc còn sống cứ làm hung làm dữ khi chết có cháu con bỏ tiền ra mướn nhiều "thầy cúng – thầy đám" tới tụng kinh, cúng kiếng lo lót là hồn hết sạch tội còn được về Tây phương ?! Vậy, những người nghèo trong sạch, ăn ở thẳng ngay thật dạ tu hành mà không tiền mướn người tụng kinh rồi Trời Phật bỏ hay sao ?

    --- oOo ---

    79.-"Kinh với sám tụng nghe thảnh-thót - Lũ nhưn-bông tập luyện đã rành - Đẩu với đờn, kèn, trống, nhịp sanh - Làm ăn-rập đặng đòi cao giá".

    Luận giải(dòng 7 tới 10, trang 63) 

    Một số người mặc áo nhà tu dày công tập dượt, múa may rất nhịp nhàng, gọi là "nhưn bông" hiệp với "thầy cúng" rồi nào mõ, đờn, kèn, trống, nhịp sanh xen lẫn tiếng tụng kinh trông vui mắt. Số người này càng đông thì chủ nhà phải trả tiền mướn nhiều.

    Nghĩa chữ khó:

    Nhưn bôngchỉ đám "thầy cúng" có tập thêm cái trò "dâng hoa" trong lễ cúng, tiếng người miền Nam nói "dưng bông" rồi lần hồi thành ra "nhưn bông"
    Đẩumiếng thau nhỏ cầm gọn trong lòng bàn tay. 
    Sanhhai miếng tre nhỏ cầm trong tay để gõ nhịp. 

    --- oOo ---

    80.-"Tâm trần-tục còn phân nhơn ngã - Thì làm sao thoát khỏi luân-hồi - Những giấy-tiền vàng-bạc cũng thôi - Chớ có đốt tốn tiền vô lý - Xưa THẦN-TÚ bày điều tà-mị - Mà dắt-dìu bá-tánh đời Đường".

    Luận giải(dòng11 tới 16, trang 63)

    Tu mà trong lòng còn phân biệt người với ta, còn lo nghĩ tính toan riêng cho mình, bày điều lừa gạt kẻ mê tối để kiếm lợi, hạng tu này không sao thoát khỏi luân hồi. Ngài khuyên dân nên chừa bỏ các điều mê tín như đốt giấy tiền vàng bạc, nhà kho ... tốn tiền mà không ích lợi gì, đó là trò của Đại sư Thần Tú bày ra từ thời nhà Đường, bên Tàu.

    Nghĩa chữ khó:

    Nhơn ngã: sự phân biệt người và ta. 
    Luân hồixin xem số 42.
    Giấy tiền, vàng bạcngười mê tin là đốt tiền giấy này như chuyển tiền thiệt cho người thân xài ở âm phủ ...
    Tà mịchuyện dối gạt người; chuyện không ngay thật.
    Nhà Đường: Tàu, 618-907, một triều đại 19 đời vua, cộng 290 năm, đạo Phật rất được kính trọng. Gần cuối đời Đường, thời Võ Hậu, bà này rất tin Đại sư Thần Tú.

    Phụ giải:

    Mê tíntin mù quáng, không thực tế; thiếu suy xét.

    --- oOo ---

    81.-"Thấy chúng-sanh lầm lạc đáng thương - Cõi Âm-Phủ đâu ăn của hối - Đúc PHẬT lớn chùa cao bối-rối - Mà làm cho PHẬT-GIÁO suy đồi - Tu VÔ-VI chớ cúng chè xôi - PHẬT chẳng muốn chúng-sanh lo lót".

    Luận giải(dòng 17 tới 22, trang 63)

    Thấy người đời không hiểu biết, dễ tin làm điều sai lạc thật đáng thương. Ở Âm Phủ đâu ăn hối lộ, đâu xài tiền giả mà gởi giấy vàng, tiền giả xuống; hay xin tiền đúc tượng Phật cho lớn, cất chùa thật to chỉ làm tốn công hao của những người thành lòng tin Phật; cũng không ít kẻ thiếu nghiêm chỉnh trong việc tiêu xài tiền đúc tượng, tiền cất chùa, khiến người tu hành ngay thật chịu tiếng xấu lây. Phật chứng lòng thành chớ không cần hình thức bề ngoài. Phật chẳng ăn chè xôi mà cúng rồi cầu xin ơn phước, hình thức lo lót đó không đúng lý lẽ chơn chánh của Đạo Phật.

    --- oOo ---

    82.-"Tăng với chúng ưa ăn đồ ngọt - Nên bày ra cúng kiếng hoài hoài - Ỷ nhiều tiền chẳng biết thương ai - Cúng với lạy khó trừ cho đặng - Kẻ nghèo khó tu hành ngay thẳng - Không cầu siêu PHẬT bỏ hay sao? - Lập trai đàn chạy-chọt lao xao - Bôi lem mặt làm tuồng hát PHẬT ".

    Luận giải(dòng 23 tới 30, trang 63)

    Chư vị tăng, ni ưa thích ăn đồ ngọt nên bày ra cúng xôi chè chứ Phật đâu có dùng. Những kẻ ỷ tiền nhiều, quyền cao chức lớn, không thương người nghèo khổ còn hung ác chà đạp kẻ dưới tay rồi đến chùa lạy tượng Phật, dâng cúng bạc tiền cũng đâu trừ được tội. Còn người tu hành ngay thật nghèo không tiền mướn "thầy cúng" tụng kinh, cầu siêu rồi Phật bỏ hay sao ? Ỷ có của tiền nhiều bày lập đàn cao, giết nhiều trâu, bò, heo, gà vịt, mời đông người tới ăn uống và coi mấy "thầy cúng" cùng phe cánh bôi vẽ mặt mày làm tuồng "hát Phật", việc làm này hao của tốn tiền mà không ích lợi gì còn mang thêm tội sát sanh.

    Nghĩa chữ khó:

    Tăng chúngchữ Phạn và Hán đồng nghĩa, chỉ các vị tu cùng ngôi chùa, cùng một Giáo hội của đạo Phật. 
    Cầu siêucầu xin linh hồn hết tội, được về cảnh an vui. 
    Trai đàn: đám cúng chay.
    Hát Phậtcác "thầy cúng" bày hát tuồng như Tam Tạng đi thỉnh kinh, Mục Liên - Thanh Đề 

    --- oOo ---

    83.-"Nay nhằm lúc mùa màng ngập thất - Vậy hãy mau bỏ bớt dị-đoan - Rán giữ-gìn luân-lý tam cang - Tròn đức-hạnh mới là báu-quí - Nay gần đến long phi xà vĩ - Cảnh gian-nan bá-tánh hầu kề".

    Luận giải(dòng 31 tới 36, trang 63)

    Năm nay bị mùa nước ngập lụt phá hại lúa và cây trái, trong cảnh mất mùa, nghèo khổ, Ngài khuyên dân nên dành dụm tiền bạc, cân nhắc xét suy việc làm của mình, đừng mù quáng tin những gì không có ý nghĩa xác thật. Rán giữ cho tròn đạo làm người mới là điều quí. Năm Thìn và cuối năm Tỵ người đời sẽ phải chịu nhiều đau khổ về nạn lụt lội tàn phá mùa màng.

    Nghĩa chữ khó:
    Dị đoanchuyện không hợp lý, không chính đáng.
    Luân lýsự dạy dỗ con người theo một lề lối tốt, đối xử phải đạo giữa người với người. 
    Tam cang hay Tam cương là ba giềng mối theo quan niệm của Khổng giáo, chỉ về trật tự, khuôn phép để giữ gìn đạo lý nước nhà: 
    1.- Giềng vua tôi(Quân thần cương) Vualấy lễ đối đãi bầy tôi. Tôihết dạ trung với vua. 
    2.- Giềng cha con(Phụ tử cương) Chadạy dỗ, chăm sóc đời sống vật chất lẫn tinh thần cho con; con lớn lên lo dựng vợ gả chồng cho chúng. Conmột lòng thờ kính, nghe lời dạy dỗ của Cha Mẹ, không làm điều gì cho Cha Mẹ trái ý, buồn phiền. 
    3.- Giềng chồng vợ(Phu thê cương) Vợ Chồngkính trọng lẫn nhau, giữ lòng thương yêu trước sau như một, không vì nghèo khổ hay giàu sang mà phụ bỏ nhau.
    Đức hạnh - Đức: lòng dạ, tánh tình ngay thẳng, hiền lành, ở theo đạo lý. Hạnhcố gắng sửa mình, giữ gìn tròn đạo làm người, thương giúp người nghèo khổ, hoạn nạn, tánh hoà dịu, giữ lễ với mọi người.
    Long phi xà vĩrồng bay, đuôi rắn, chỉ năm Thìn (1940) đến cuối năm Tỵ (1941). Đức Thầy viết quyển này ngày 12 tháng 9 năm Kỹ Mão (1939) Trận giặc thế giới thứ hai khởi ngày 02/9/1939. Năm 1940, bão lụt lớn ở tỉnh Gò Công. 1940-1941 quân Nhựt tràn qua Bắc Việt gây ra nạn đói chết hai triệu người năm 1945…
    Gian nanrất nhiều khó khăn. 

    Phụ giải:

    Sấm Trạng Trình: Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh”: có nghĩa: cuối năm Thìn đầu năm Tỵ chiến tranh khởi sự, cùng nghĩa với câu Long phi xà vĩ của Đức Thầy. 

    --- oOo ---

    84.-"Thấy chúng sanh còn hỡi say mê - KHÙNG chỉ rõ đường tà nẻo chánh - TA là kẻ vô hình hữu ảnh - Ẩn xác phàm gìn đạo THÍCH-CA".

    Luận giải(dòng 1 tới 4, trang 64)

    Thấy người đời còn mê tối nên Ngài chỉ đường ngay lối chánh, giảng rõ việc đúng điều sai và cho biết Ngài không như người phàm, có bóng mà không hình - ngầm chỉ là vị Bồ tát - mượn xác trần để làm sáng tỏ nền Đạo của Đức Phật Thích Ca.

    --- oOo ---

    85.-"Làm gian ác là quỉ là ma - Làm chơn chánh là TIÊN là PHẬT - Hiếm những kẻ không nhà không đất - Mà sang giàu chẳng xót thương giùm - Có lỡ lầm chưởi mắng um-sùm - Thêm đánh đập khác nào con vật - Ăn không hết lo giành (dành) lo cất - Đem bạc trăm cúng PHẬT làm chi ?"

    Luận giải(dòng 5 tới 12, trang 64)

    Làm gian ác là ma là quỉ, lòng trong sáng, thương yêu, tha thứ, giúp đỡ người, sống ngay thẳng, hiền lành là Tiên là Phật. Còn người giàu dư tiền của sao chẳng nghĩ suy mà thương những kẻ không nhà, không đất, khi họ lỡ lầm lại nặng lời mắng chửi, đánh đập, đối xử như con vật; thức ăn không hết thì cất để dành, mặc kệ người bụng đói thiếu ăn; keo kiệt với người nghèo khổ, hoạn nạn mà dám đem bạc trăm dưng cúng Phật xin ơn, xin phước. Phật đâu xài tiền bạc ?

    Nghĩa chữ khó:

    Chơn chánhngay thẳng, thật thà, đúng đắn. 

    Phụ giải:

    Keo kiệthà tiện quá đáng đến mức xấu về tiền bạc.

    --- oOo ---

    86.-"PHẬT TÂY-PHƯƠNG vốn tánh từ-bi - Đâu túng thiếu mà quơ mà tởi - KHÙNG cả tiếng kêu dân ơi hỡi - Hãy giúp cho kẻ đói mới nhằm - Đến loạn ly khổ hạnh khỏi lâm - Còn hơn đúc chuông đồng PHẬT bự".

    Luận giải(dòng 13 tới 18, trang 64)

    Phật ở Tây Phương là đấng từ bi, đâu cần tiền mà xin mà mượn. Ngài lớn tiếng kêu gọi những ai dư tiền dư của nên mở rộng lòng thương giúp đỡ kẻ nghèo đói, nhờ lòng tốt đó, đến lúc loạn ly sẽ được ơn trên chư Phật cứu độ tai qua nạn khỏi. Dùng của tiền cứu giúp người khổ nạn quí hơn là đúc chuông đồng Phật lớn.

    Nghĩa chữ khó:

    Quơvay mượn. Tởikêu đóng góp, xin mỗi nơi một ít.
    Loạn ly - Loạnrối, mất trật tự. Ly: lìa, rời ra, bởi giặc cướp lộn xộn chạy lạc nhau.
    Khổ hạnh khỏi lâmkhỏi bị cực khổ, nguy hiểm.

    --- oOo ---

    87.-"Chẳng làm phước để làm hung dữ - Rồi vào chùa lạy PHẬT mà trừ - PHẬT TÂY- PHƯƠNG có lẽ hiểu dư - Dụng tâm ý chớ không dụng vật".

    Luận giải(dòng 19 tới 22, trang 64)

    Không có lòng thương cứu giúp người nghèo khổ, cứ làm hung ác rồi vào chùa lạy Phật xin tha tội, xin ơn phước. Phật ở Phương Tây dư biết, chỉ chứng những ai thành lòng, tu hành ngay thẳng, chớ Phật không dụng của lót xôi chè, lễ vật mà tha thứ tội.

    --- oOo ---

    88.-"Muốn bổn đạo tánh tình chơn-chất - Rèn lòng hiền thương xót lẫn nhau - Kể từ ngày (rày) vàng lộn với thau - PHẬT TIÊN, THÁNH cùng nhau xuống thế - Cứu bá-tánh không cần lễ mễ - Để dắt-dìu đạo lý rành đường"

    Luận giải(dòng 23 tới 28, trang 64)

    Ngài khuyên tất cả anh chị em trong gia đình nhà Phật nên giữ tánh hiền lành ngay thật, mở rộng lòng thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Trước mọi việc phải dùng trí óc cân nhắc nghĩ suy. Kể từ ngày chánh tà lẫn lộn, Phật, Tiên, Thánh xuống trần dắt dìu bá tánh, những vị này vì lòng từ bi cứu độ chúng sanh, hoàn toàn bất vụ lợi, không nhận hưởng lễ vật dưng cúng rườm rà đâu.

    Nghĩa chữ khó:

    Lễ mễ: khệ nệ ôm mang lễ vật. Nghĩa ở đây là không cần phải dưng cúng lễ vật.
    Đạo lýxin xem số 25
    Chơn chấtthật thà, ngay thẳng.

    --- oOo ---

    89.-"Nước NAM-VIỆT nhằm cõi Trung-Ương - Sau sẽ có PHẬT TIÊN tại thế - Khuyên sư vãi bớt dùng của thế - Gắng công tu đặng có xem đời". (dòng 29 tới 32, trang 64)

    Luận giải:
    Biết ngày sau Phật Tiên mở Hội lớn ở Việt Nam xét chọn người đủ đầy đạo đức lập đời mới, nên Ngài khuyên các vị sư và ni bớt xài tiền của người thế gian mà hãy rán gắng công tu hành để được sống còn mà nhìn đời.

    --- oOo ---

    90.-"Tu thật tâm thì được thảnh-thơi - Tu giả dối thì lao thì lý -KHÙNG khuyên hết kẻ ngu người trí - Rán tĩnh tâm suy nghĩ Đạo-mầu".

    Luận giải(dòng 32 tới 36, trang 64)

    Người thật dạ tu hành, tâm sạch trong, lòng phẳng lặng mới phát huy được trí huệ, có trí huệ mới thấu hiểu giáo lý, mới tiêu trừ được Tham - Sân - Si. Tham sân si dứt thì tâm hồn nhẹ nhàng thư thái, còn kẻ tu giả dối mặc áo đạo để lừa gạt người đời, nếu lương tâm không dày vò cũng bị dân chúng rủa nguyền hoặc luật pháp thế gian trừng phạt. Ngài khuyên tất cả, từ bực trí thức đến kẻ tầm thường, nên lắng lòng yên tịnh mà suy nghĩ tìm hiểu giáo lý cứu khổ của Đạo Thích Ca.

    Nghĩa chữ khó:

    Thảnh thơi: nhẹ nhàng, thư thái không bị ràng buộc hoặc phải lo nghĩ điều gì.
    Lao lýxin xem số 19.
    Tĩnh tâmgiữ lòng yên lặng.
    Đạo mầunền đạo cao sâu, mầu nhiệm (không đủ ý, đủ lời giãi thích rõ được). 

    Phụ giải:

    Lương tâmlòng dạ hiền, tốt, người đời ai cũng có. 

    --- oOo ---

    91.-"Chuyện huyền-cơ bí hiểm cao sâu - Hãy nghiệm xét hai đường tà chánh - Các chư PHẬT không khi nào rảnh - Tâm từ bi vẫn nhớ chúng sanh".

    Luận giải(dòng 1 tới 4, trang 65)

    Máy Trời bí hiểm cao sâu, khó tìm hiểu, chúng ta nên suy xét, cân nhắc lợi, hại của hai đường tà với chánh mà chọn cho mình một cuộc sống ngay hiền, đạo đức. Chư Phật với lòng Từ Bi, các Ngài lúc nào cũng nhớ tưởng, thương nghĩ đến chúng sanh.

    Nghĩa chữ khó:

    Huyền cơmáy trời mầu nhiệm người thường không thể đoán biết trước được.
    Bí hiểmkín đáo, những vấn đề bên trong rất khó hiểu. 

    --- oOo ---

    92.-"Các chư Thần tuần vảng (vãng) năm canh - Về Thượng Giái tâu qua THƯỢNG-ĐẾ - Sổ tội ác thì vô số kể - Còn làm nhơn thì quá ít-oi - Hội công-đồng xem xét hẳn hòi - Sai chư tướng xuống răn trần thế".

    Luận giải(dòng 5 tới 10, trang 65)

    Chư Thần suốt đêm đi tuần khắp nơi rồi về tâu trình lên Thượng Đế, sổ sách ghi chép rõ ràng, xem ra kẻ làm ác quá nhiều còn người lòng dạ hiền lành, ăn ở thẳng ngay thì không được bao nhiêu. Thiên đình sau khi mở hội xem xét kỹ lưỡng rồi lịnh cho chư tướng xuống trần răn dạy người đời.

    Nghĩa chữ khó:

    Thiên đình: trào đình, hay triều đình của Vua Trời.
    Hội công đồnghội lớn có đông đủ người dự. 
    Rănngăn cấm, chỉ dạy điều sai trái để tránh.

    --- oOo ---

    93.-"Đau nhiều chứng dị-kỳ khó kể - Sắp từ nay lao khổ đến cùng - Kẻ dương gian khó nỗi thung-dung - Người bạo ác không toàn tánh mạng".

    Luận giải(dòng 11 tới 14, trang 65)

    Phần răn phạt của Thiên đình ngoài những chứng bịnh lạ kỳ, con người còn phải chịu nhiều đau khổ chết chóc. Thế gian từ đây không còn yên vui, thong thả, bọn người hung ác khó được sống còn.

    Nghĩa chữ khó:

    Dị kỳlạ thường, kỳ cục, chưa từng xảy ra. 
    Bạo áchung ác, dữ và ác độc.
    Lao khổcực khổ, tốn nhiều sức lực mệt mỏi, khó chịu.
    Thung dungthong dong, thong thả, nhàn nhã, không vướng bận lo nghĩ.

    --- oOo ---

    94.-"Đường đạo lý chớ nên chán-nản - Hãy bền lòng tầm PHẬT trong tâm - PHẬT Tây-Phương thiệt quá xa-xăm - Phải tìm kiếm ở trong não trí ".

    Luận giải(dòng 15 tới 18, trang 65)

    Việc tu hành không nên chán nản, con người ai cũng có tánh Phật, vì mê muội bỏ quên cái mình đã có, hãy bền chí lắng lòng tìm lại Phật trong tâm. Đừng kiếm Phật ở Tây phương, đã xa còn vô ích.

    --- oOo ---

    95.-"Sau đến việc sơn băng kiệt thủy - KHÙNG thảm thương bá-tánh quá chừng - Nhìn xem trần nước mắt rưng-rưng - Cảnh áo não kể sao cho xiết".

    Luận giải(dòng 19 tới 22, trang 65)

    Nghĩ đến lúc thế gian gặp cảnh núi lở nước khô, Ngài không ngăn được nước mắt, nỗi thảm khổ xót đau đó của dân chúng làm sao kể xiết !.

    Nghĩa chữ khó:

    Sơn băngnúi đổ, tan vở, núi sụp. 
    Kiệt thủynước cạn khô.
    Áo nãohết sức buồn.

    Phụ giải:

    Câu Sơn băng kiệt thủyngoài nghĩa thông thường là núi đổ (bể) nước khô cạn, còn báo trước một điềm vô cùng quan trọng, như nước mất nhà tan, sanh linh điêu đứng. Theo kinh nghiệm lấy từ truyện, sử Tàu: 
    - 1.- Sông Ỷ, sông Lạc cạn nhà Hạ mất nước.
    - 2.- Sông Hà cạn nhà Thương mất. 
    - 3.- Sông Kinh, sông Hà cùng động đất và núi Kỳ lở đè chết người, không bao lâu nhà Châu, đời U vương (1134-1123 trườc T.C) vua thứ 12 nhà Châu bị diệt. 

    --- oOo ---

    96.-"TA dạy dỗ là vì tình thiệt - Cho bá gia rõ biết người KHÙNG - Thấy dương-trần làm dữ làm hung - Nên khuyên nhủ cho người lương-thiện - Chữ LỤC-TỪ trì tâm bất viễn - Thì lâm nguy có kẻ cứu mình".

    Luận giải(dòng 23 tới 28, trang 65)
    Ngài đi giảng dạy đạo lý đây là do lòng thương nhân thế, mọi người hãy biết như vậy. Thấy nhiều kẻ dương trần hung ác Ngài hết lời khuyên nhủ, nhắc nhở, mong sao có kẻ biết ăn năn sửa tánh làm điều lành, tránh xa việc dữ, lòng không quên sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật. Ai mà biết thành ý tu hành, khi gặp nguy hiểm sẽ được cứu giúp.

    Nghĩa chữ khó:

    Lâm nguygặp việc nguy hiểm có thể hại mạng sống.
    Khuyên nhủchỉ dạy với lời lẽ dịu dàng nhưng không có ý bắt buộc.
    Lương thiệnngười hiền lành, ngay thật, không làm điều sai trái với đạo lý, với luật pháp.
    Chữ Lục tự trì tâm bất viễnkhông dứt tưởng niệm sáu chữ: Nam Mô A Di Đà Phật.

    --- oOo ---

    97.-"Ai lòng nhơn hoặc chép hay in - Mà truyền bá đặng nhiều phước đức - Trong bá-tánh từ nay buồn bực - KHÙNG yêu dân chỉ rõ Đạo mầu".

    Luận giải(dòng 29 tới 32, trang 65)

    Ai có lòng thương đời thì chép lại hay mướn in mấy lời khuyên dạy này rồi phân phát cho nhiều người hiểu biết, đó là gieo trồng duyên phước, là một việc làm tốt. Đời sống dân chúng từ nay phải chịu nhiều việc buồn phiền, vì thương đời Ngài đã chỉ rõ ràng đường tu học theo nền Đạo cứu khổ của Đức Phật Thích Ca.

    Nghĩa chữ khó:

    Lòng nhơnlòng thương người.
    Truyền bálàm lan rộng ra cho nhiều người hiểu biết.

    --- oOo ---

    98.-"Rán trì tâm tưởng niệm canh thâu - Nằm đi đứng hay ngồi chẳng chấp - Việc biến chuyển thiên-cơ rất gấp - Khuyên chúng-sanh hãy rán tu hành".

    Luận giải(dòng 1 tới 4, trang 66)

    Người khuyên dân, bất cứ nằm ngồi đi đứng, ngày hay đêm gì cũng rán niệm tưởng Phật trong lòng, đừng xao lãng, vì máy Trời đã sắp xếp, từ nay chuyện đời thay đổi thật mau, thật gấp, hãy cố gắng làm lành lánh dữ, yên phận tu hành.

    Nghĩa chữ khó:

    Trì tâmluôn giữ trong lòng, không quên lãng. 
    Canh thâuđêm như bị thâu ngắn trong khi Ngài còn nhiều điều suy nghĩ, chưa hết ý cạn lời.
    Tu hành - Tusửa, sửa lòng, sửa tánh cho tốtHànhlàm đúng điều Phật dạy, giữ giới luật của người tu. 

    Phụ giải:

    Xao lãngbỏ bê, không để ý tới.
    Biến chuyểnviệc thay đổi, đổi thay.

    --- oOo ---

    99.-"Cầu linh-hồn cho được vãng-sanh - ĐÂY chỉ rõ đường đi nước bước - Hãy tưởng PHẬT đừng làm bạo ngược - TA phần hồn dạo khắp thế-gian - Vào xác-trần nước mắt chứa-chan - Khắp lê-thứ nghe lời thì ít ".

    Luận giải(dòng 5 tới 10, trang 66)

    Muốn sau này linh hồn được về nơi tột cùng an vui thì nghe lời Ngài khuyên, chỉ rõ đường đi nước bước, đó là lòng lúc nào cũng niệm tưởng Phật, đừng ăn ở ngược ngang, đừng làm điều hung ác. Ngài dùng tâm linh di chuyển khắp cùng thế gian, thấy người đời ít ai biết theo lời khuyên dạy mà sửa tánh răn lòng, lo tu. Ngài xót xa buồn mà nước mắt xác trần chan chứa.

    Nghĩa chữ khó:

    Vãng sanhđược sanh về thế giới yên vui.
    Chứa chanđầy dẫy, tràn trề, linh láng.
    Bạo ngượclàm hung ác, ngang ngược, không cần biết lẽ phải trái; ham chém giết. 
    Lê thứxin xem số 56.

    Phụ giải:

    Tâm linhtâm hồn, tinh thần. Bực đạo hạnh cao thâm có thể đưa tâm linh đến bất cứ nơi nào theo ý muốn.

    --- oOo ---

    100.-"Chốn sơn lãnh bây giờ mù-mịt - Cho nên dân dạy chẳng nghe lời - Kể từ nay nói chuyện chiều mơi - Chớ chẳng nói dông dài khó hiểu".

    Luận giải(dòng11 tới 14, trang 66)

    Trên đỉnh núi bây giờ mây giăng mờ mịt, chưa tới ngày mở Hội, dân chúng chưa thấy nên chẳng ai chịu nghe lời khuyên dạy tu hành. Kể từ nay Ngài nói chuyện gần tới, chớ không nói dông dài cho người đời khó hiểu nữa.

    Nghĩa chữ khó:

    Sơn lãnhđỉnh núi, đầu núi, chỏm núi cao.
    Chuyện chiều mơichuyện sắp tới, không còn lâu.

    --- oOo ---

    101.-"Cờ đã thất còn chờ nước chiếu - Mà còn ăn con chốt làm chi ? - Ai là người quân-tử tu mi ? - Phải sớm xử thân mình cho vẹn".

    Luận giải(dòng 15 tới 18, trang 66)

    Thế cờ đã bí, chờ nước chiếu nữa là thua, vậy mà còn ăn con chốt làm gì ? Ai là người trai có đủ tài đức, biết nhìn xa, thấy được rộng, phải xử sao cho tròn đạo làm người !.

    Nghĩa chữ khó:

    Cờ đã thất còn chờ nước chiếu - Mà còn ăn con chốt làm chi: đời đã đến kỳ tiêu diệt còn lo việc lặt vặt làm chi.
    Quân tửbực tài đức, tánh rộng rãi, đối xử đẹp với người.

    --- oOo ---


    102.-"Chừng lập Hội khỏi thùa khỏi thẹn - Với PHẬT-TIÊN cũng chẳng xa chi - Lời cao siêu khuyên hãy gắn ghi - Ta ra sức dắt dìu bá-tánh".

    Luận giải(dòng 19 tới 22, trang 66) 

    Rán làm tròn đạo con người thì đến ngày lập Hội khỏi thẹn với lòng, không phải thua kém ai, sánh với Phật Tiên cũng chẳng còn cách biệt bao nhiêu. Lời khuyên đầy đủ ý nghĩa này nếu người đời gắn ghi trong dạ Ngài sẽ dắt dìu cứu độ.

    --- oOo ---

    NAM MÔ TAM GIÁO QUY NGUƠN,
    PHỔ ĐỘ CHÚNG SANH A DI ĐÀ PHẬT

    Tạm dịch:
    Nguyện cầu ba Đạo về nguồn

    Dắt dìu sanh chúng theo gương Phật Đà

    Nghĩa chữ khó:

    Tam giáoPhật Giáo, Khổng Giáo và Lão giáo.
    Quy nguơn hay Quy nguyêntrở về nguồn cội.
    Phổ độ chúng sanhcứu giúp người đời.

    --- oOo ---

    BỬU ngọc vãng lai rõ Đạo mầu,
    SƠN tầm hạnh Thích nẻo cao sâu.
    KỲ giả thức tâm tìm đạo lý,
    HƯƠNG tuyệt đăng lui bãi phục cầu.

    BỬU SƠN KỲ HƯƠNG, hiểu theo nghĩa thường là Hương lạ trên Non báu. 

    Theo lời giải của Đức PHẬT THẦY TÂY AN được lưu truyền trong gia đình TỨ ÂN HIẾU NGHĨA:

    Chữ BỬU là hiệu PHẬT VƯƠNG
    Chữ SƠNPHẬT THẦY, tin tưởng phước dư
    Chữ KỲ là hiệu BỔN SƯ
    Chữ HƯƠNG, PHẬT TRÙM, bốn chữ phải mang.


    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Share this

Bài Viết Liên Quan

Previous
Next Post »